|
Post by From RFA on Jul 18, 2018 8:31:49 GMT -6
Xứ "Thiên đường" và "cuộc giải phóng"
Ngày 27/4/2018, hai nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) đã bắt tay nhau, hứa hẹn một hiệp ước chấm dứt chiến tranh trong năm nay.
Hai kẻ thù địch đã từng không ngại ngần dành cho nhau những ngôn từ thù địch, gọi nhau bằng những hỗn danh không mấy đẹp đẽ và thể hiện cho thiên hạ biết họ có thể nhai tươi xé xác nhau nếu có thể.
Họ cũng đã từng nã súng vào nhau và đe dọa biến một nửa đất nước thành tro bụi, chi biết bao nhiêu sức dân, tiền của để diễu võ dương oai đe dọa lẫn nhau dù người dân Bắc Hàn đang chết đói.
Nay đã tươi cười bắt tay nhau hứa hẹn một sự hòa bình.
Sự kiện này trùng vào những ngày Việt Nam đang hô hào kỷ niệm "Chiến thắng 30/4, giải phóng Miền Nam" gợi lại cho người ta nhiều suy nghĩ.
Thiên đường và địa ngục Khi thế giới chia phe, hệ thống cộng sản đang trên đà phát triển làm mưa, làm gió gây bao tại họa trên thê giới, nhiều đất nước đã là nạn nhân của nó.
Trừ những đất nước hứng trọn những cuộc chiến tranh, những đất nước đã hoàn toàn nằm trong cơn bão cộng sản, rồi thoát ra và từ bỏ nó sau khi đã thấm đòn đại họa ấy, thì vẫn có những đất nước bị chia cắt bằng những cuộc chiến tranh hoặc phân chia ranh giới, giới tuyến. Thế rồi những người đồng chủng, đồng huyết trở lại trở thành kẻ thù của nhau, và xương máu lại cứ vậy mà đổ theo năm tháng.
Những đất nước bị họa cộng sản chia cắt có thể kể đến như Đức, Triều Tiên, Việt Nam và Trung Cộng.
Sở dĩ chúng ta nói rằng việc chia cắt là do đại họa cộng sản, dù ở đó có đủ cả hai bên. Chỉ vì những sự chia cắt đó,có nguyên nhân là sự tồn tại của cộng sản. Bởi sau đó, khi người dân đã hiểu ra thế nào là cộng sản, thế nào là dân chủ, thì họ sẵn sàng vứt bỏ và bằng mọi cách để trốn khỏi "Thiên đường Cộng sản".
Cộng sản bằng hệ thống tuyên giáo hùng hậu thường xuyên tuyên truyền về chế độ và đất nước Cộng sản như một "thiên đường nơi trần thế" với những chiếc bánh vẽ mang tên "Ngày mai". Thế rồi họ lại đánh tráo khái niệm tạo nhầm lẫn giữa cái "Ngày mai" và cái hiện tại, để ca ngợi cuộc sống khốn khó ở các vùng cộng sản như là khuôn mẫu và là mơ ước của loài người.
Ngược lại, cũng qua hệ thống tuyên truyền cộng sản, thì tại các lãnh thổ khác không cộng sản, chỉ có nghèo đói, lạc hậu, man rợ và... không đáng sống.
Thế nhưng, thực tế được sáng tỏ hơn sau khi bức màn sắt vây kín những vùng cộng sản cách biệt thế giới bên ngoài được gỡ bỏ.
Khi đó, cả đất nước, cả dân tộc giật mình.
Điều có thể nhìn thấy trước mắt không thể chối cãi, là cùng một dân tộc, cùng một màu da, cùng điều kiện thiên nhiên, địa lý và con người. Nhưng hễ vùng nào theo cộng sản, thì ở đó hiện diện sự nghèo đói, khốn khổ, lạc hậu và con người không còn nhân phẩm bởi quyền con người không được hiện diện.
Cùng là người Hán, nhưng thử nhìn xem vùng đại lục của Trung Cộng và Đài Loan, Hong Kong, Ma Cao là những nơi mà "bọn tư bản giãy chết" đã "cai trị nhân dân lao động" thì cuộc sống kinh tế, xã hội cũng như đời sống người dân hai bên ra sao.
Thử nhìn xem, cuộc sống của người dân Đông Đức và Tây Đức như thế nào khi một bên theo Chủ nghĩa Cộng sản.
Và hãy nhìn xem, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, hai miền của một đất nước, cùng một dân tộc, cùng màu da và điều kiện địa lý thì ở đâu mới là địa ngục và ở đâu thật sự là thiên đường.
Và ước mơ của những vùng đó, khu vực đó của người dân là mong rằng sớm có ngày để được có cuộc sống như những người dân đồng chủng, đồng tộc của mình bên kia giới tuyến.
Tôi đã đến Thâm Quyến, một thành phố đặc khu mới xây dựng và phát triển bên cạnh HongKong, Con sông Thâm Quyến ngăn chia giữa hai khu vực chưa đủ, giữa sông có cả một bức tường bê tông rất cao và trên đó là hệ thống dây điện trần.
Người dân ở đây cho chúng tôi biết rằng: Khi đất nước Trung Quốc dưới thời Cộng sản sắt máu nhất lính Trung Quốc lập đồn dọc theo bờ sông, sẵn sàng xả đạn bất cứ ai vượt qua ranh giới.
Thế nhưng, hàng năm vẫn có hàng đoàn người từ các làng trong nội địa đại lục, di chuyển ra bờ sông và đổ bộ vượt sông bất chấp mọi nguy hiểm bởi sông sâu, bởi lính xả đạn, bởi điện cao thế. Họ công kênh nhau qua hàng rào để vượt sang "địa ngục" dù cho trăm người chỉ có một ít người thoát.
Cũng bức tường Berlin là nơi đã chứng kiến những người liều mình vượt qua cõi chết để chạy trốn khỏi "thiên đường cộng sản".
Điều đó, hầu như ai cũng biết, kể cả hệ thống tuyên giáo.
Thế nhưng, cái thói dối trá thành bản năng, sự lỳ lợm cố hữu và tính kiêu ngạo cộng sản đã không để cho họ nhìn nhận lại, lấy lợi ích của người dân, của dân tộc và đất nước làm trọng. Họ chỉ giữ chắc cái "chính quyền" mà họ đã cướp được từ tay người dân bằng mọi giá.
Và họ càng không thể từ bỏ cái ngai vàng cướp được để lo cho đời sống xã hội và đất nước.
Và vì thế, họ đày đọa cả dân tộc, cả đất nước chìm vào sự khốn khó, cái chết, sự nhục nhã và tối tăm.
Mặt khác, những người cộng sản luôn mồm kêu gào sẽ tiến hành "giải phóng" người dân ở bên kia giới tuyến. Mới đây thôi, Bắc Triều Tiên còn hô hào toàn dân chuẩn bị "Giái phóng" miền Nam.
Những cuộc "Giải Phóng" Thế rồi các vùng lãnh thổ, đất nước cũng dần dần được thống nhất, hòa nhập với nhau. Điển hình là giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức.
Hai nước Đức đã sáp nhập ngoạn mục mà không cần tiêu hao một viên súng đạn. Có điều, bên "địa ngục" CHLB Đức đã phải oằn mình để chấp nhận cưu mang và gánh đỡ cho bên "thiên đường" CHDC Đức vốn nghèo đói, lạc hậu và chậm phát triển hơn nhiều lần. Mấy chục năm đã qua, gánh nặng đó vẫn chưa được thanh toán hết.
Các vùng lãnh thổ như HongKong và Macao cũng dần dần được trả về cho Trung Quốc. Tuy nhiên, nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc buộc phải chấp nhận để các vùng lãnh thổ đó một chế độ hành chính khác biệt bởi người dân ở đó không chấp nhận sự thống trị của hệ thống Cộng sản.
Và dù nhiều lầ tuyên bố, dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa... nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc cũng không thể thuyết phục được Đài Loan "trở về" để thống nhất với đại lục. Chỉ bởi mọi người dân nơi đây sợ hãi chế độ "thiên đường cộng sản".
Và giờ đây, Bắc và Nam Triều Tiên cũng bước đầu có những cái bắt tay hữu nghị để nói đến vấn đề hòa bình.
Tuy nhiên, để sáp nhập hay thống nhất làm một, thì chắc chắn bên "địa ngục" Nam Triều Tiên còn phải xem lại nhiều điều. Bởi những hệ lụy khi phải gánh cả một cái "thiên đường" mà ở đó, hàng triệu người dân chết đói thê thảm chỉ để cho cha con họ Kim đua nhau xây lâu đài tráng lệ và ăn chơi xa hoa rồi đổ tiền chế bom dọa cả thế giới cho xứng với danh hiệu "Côn đồ quốc tế" là vô cùng to lớn.
Thế mới hiểu là dù Bắc Triều Tiên có mời sang "xâm lược", thì Nam Triều Tiên đâu dễ đồng ý.
Cho nên, những ngôn từ quen thuộc để tuyên truyền của hệ thống cộng sản như "Đế quốc Mỹ xâm lược" hay chế độ ngụy quyền, giải phóng... đã dần dần bị thực tế bác bỏ thẳng thừng.
Còn ở Việt Nam, sau khi "Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam" mới ký ráo mực được 2 năm, thì miền bên "thiên đường miền Bắc" đã mở cuộc tấn công bằng đại bác, bom đạn, súng và xương máu người dân để... "giải phóng" một vùng lãnh thổ giàu có, văn minh và hiện đại hơn mình rất nhiều lần.
Và ngày 30/4/1975, đánh dấu một "chiến thắng" của bên "thiên đường" trong cuộc chiến tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc mà mục đích là bảo vệ cho hai hệ thống tư tưởng khác nhau và đối tượng cũng chính là nạn nhân, là người dân Việt Nam cả hai miền đã phải bỏ mạng hàng chục triệu người.
Qua hệ thống tuyên truyền cộng sản, người dân cứ tưởng rằng, khi họ được "giải phóng" thì người dân sẽ được hưởng cuộc sống "độc lập - tự do - hạnh phúc" như người cộng sản rêu rao.
Nhưng, đã gần nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày được "giải phóng" người dân không chỉ miền Nam, mà cả đất nước đang đứng trước một tương lai mù mịt về số phận người dân.
Tài nguyên đất nước cạn kiệt bởi dưới sự lãnh đạo "thống nhất, tuyệt đối của đảng" cả hệ thống đua nhau đào lên bán, đua nhau tranh cướp tham nhũng và phá hoại.
Nợ nước ngoài chồng chất, hầu như công việc nhà nước có thể làm, là nghĩ ra đủ các loại thuế, phí, và cướp của dân bằng mọi cách để đổ cho đầy túi đám quan tham chỉ biết ăn tàn, phá hại.
Mỗi người dân được đảng và nhà nước chia đều và để lại cho món nợ nước ngoài hàng chục triệu đồng, tha hồ để làm hồi môn cho các thế hệ sau.
Con người bị tha hóa về mọi mặt, xã hội được "lãnh đạo" bởi hệ thống các "cháu ngoan của Bác" và là "con người mới XHCN" đưa đất nước sang lệ thuộc Bắc Kinh, lãnh thổ dần dần mất vào tay giặc, dân tộc lầm than và bị khinh miệt.
Môi trường sống về vật chất, chính trị, không khí cho đến văn hóa, tư tưởng và tâm hồn luôn bị đầu độc bằng mọi cách. Sự suy đồi được coi là chuyện bình thường, đạo đức xã hội chỉ là một khái niệm.
Đã gần nửa thế kỷ qua đi, nhưng, những thế lực "thắng cuộc" vẫn chưa hả hết cơn thù địch và tàn ác của mình với chính đồng bào ruột thịt chứ chưa nói đến cái bắt tay hoặc câu chào đối với bên "thua cuộc".
Đó là tai họa của dân tộc này, khi sự thù địch vẫn được nuôi dưỡng hằng ngày một cách cực đoan thì đất nước, xã hội không thể tiến bộ.
Và tương lai đất nước, dân tộc mù mịt người dân lại tìm cách thực hiện "Cuộc bỏ phiếu bằng chân" lần thứ 3 với Chủ nghĩa Cộng sản - Chạy ra nước ngoài dù phải làm nô lệ.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
|
|
|
Post by TG Vi Anh on Aug 17, 2018 12:01:40 GMT -6
Tân Cương Trước, VN Sau Nếu…
Đài RFI của Pháp điểm báo ngày 10-08-2018, nói “Trung Quốc chi 10 tỉ đô la một năm để kềm kẹp Tân Cương”. Đại ý báo La Croix nói “Từ hai năm qua, Tân Cương [với 10 triệu dân] bị đàn áp không thương tiếc”, với «bộ máy an ninh tổng lực chưa từng có trên thế giới và trong lịch sử», “Ông Trần Toàn Quốc (Chen Quanguo) được điều về làm bí thư đảng ủy Khu tự trị Tân Cương. Từ quân đội chuyển sang chính trị, Trần Toàn Quốc đã có 5 năm kinh nghiệm đàn áp Tây Tạng, và dưới mắt Bắc Kinh, đây là quan chức lý tưởng để «ổn định» vùng đất bị cho là chủ trương ly khai.”..“Trên 100.000 đồn công an mới được thiết lập tại các thành phố lớn, ở ngoại ô và nông thôn. Ngoài việc giám sát trực tiếp bằng con người, công nghệ cao còn được vận dụng: camera ở các nơi công cộng, thiết bị bay không người điều khiển (drone), internet, điện thoại di động…
Đối với Trung Quốc, Tân Cương là một phòng thí nghiệm khổng lồ về giám sát điện tử, để áp dụng vào các miền khác của đất nước, thậm chí xuất khẩu”… “Nửa triệu người Duy Ngô Nhĩ bị tống vào trại cải tạo.”“Người ta đếm được khoảng 70 trại cải tạo ở Tân Cương, chưa kể những trại khác đang được xây dựng. Một báo cáo của Quốc Hội Mỹ nêu ra con số 500.000 người Duy Ngô Nhĩ bị giam cầm, đánh giá Tân Cương là «trung tâm giam giữ hàng loạt người thiểu số lớn nhất thế giới hiện nay»… Một số phải đi cải tạo nhiều tuần lễ, số khác trải qua nhiều tháng trong những điều kiện vô nhân đạo, ăn uống chỉ đủ cầm hơi. Không hề thông qua xét xử, các cán bộ đảng, công an và quân đội có toàn quyền trấn áp, đe dọa trả thù gia đình nếu tù nhân không chấp hành. Tương tự đối với các sinh viên hay doanh nhân Duy Ngô Nhĩ từng sống ở nước ngoài. Họ phải «thú nhận» tất cả, sau khi «cải tạo tốt» thì đảng sẽ khoan hồng.
Cũng giống như đối với «bọn phản cách mạng, xét lại» trong thời kỳ Cách mạng văn hóa (1966-1976), những ai bị cáo buộc «khủng bố, cực đoan tôn giáo, ly khai», sẽ bị cho vào địa ngục này để tẩy não. Ông Marc Julienne nhận xét: «Việc Bắc Kinh im lặng về thực tế này cho thấy tính chất bất hợp hiến và bất hợp pháp so với luật quốc tế của hệ thống trại cải tạo Trung Quốc». Cũng RFI một ngày sau tức vào ngày 11-08-2018 đưa tin “Liên Hiệp Quốc: Một triệu người Duy Ngô Nhĩ bị giam ở Trung Quốc”. Một ủy ban gồm các chuyên gia Liên Hiệp Quốc hôm qua 10/08/2018 thông báo đang nắm giữ nhiều thông tin khả tín, theo đó hiện có một triệu người Duy Ngô Nhĩ đang bị nhốt trong «các trại giam khổng lồ được giữ bí mật».
Reuters dẫn lời bà Gay McDougall, thành viên của Ủy ban thanh toán nạn phân biệt chủng tộc trực thuộc Liên Hiệp Quốc, cho biết bên cạnh đó còn có hai triệu người, gồm người Duy Ngô Nhĩ và các dân tộc thiểu số khác theo đạo Hồi, bị buộc phải sống trong các «trại học tập chính trị», tức trại cải tạo, ở khu Tự trị Tân Cương.” ABC News nói thêm, phái đoàn Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc cho biết «vô cùng quan ngại trước các báo cáo về nạn đàn áp người Duy Ngô Nhĩ và những người Hồi giáo khác tại Trung Quốc». Đồng thời «kêu gọi Trung Quốc chấm dứt các chính sách phản tác dụng, trả tự do cho tất cả những ai bị bắt giữ tùy tiện.” Quá đủ để người Việt Nam Cộng Hoà nhớ lại thời CS Bắc Việt cưỡng chiếm được Miền Nam. Quân dân cán chính VNCH mấy trăm ngàn người bị đi tù cải tạo, khổ sai, biệt xứ, đói, bịnh, bị hành hạ thể chất và tinh thần, nên chết rất nhiều. Dân chúng VNCH bị CS bóc lột sạch nhà, sạch cửa qua các trận đổi tiền, đánh tư sản mại bản, dân tộc, rồi đày đi vùng kinh tế mới sơn lam chướng khí, không nhà thương, trường học, việc làm để CS ngoài Bắc vào và trong bưng biền ra chiếm nhà cửa. Dân chúng VNCH chịu không nổi, hàng mấy triệu người vượt biên, phong trào lớn nhứt là dùng thuyền nan vượt đại dương, theo con số của Liên hiệp Quốc, đến được bên bờ tự do khoảng 1 triệu, chết ngoài biển khoảng nửa triệu! Nhưng đó là CSVN mới chiếm phần nửa nước thôi, chớ nếu CS Trung Quốc thông đồng với CSVN, biến VN thành một tỉnh của TQ, một tỉnh ở miền nam của TQ như Tân Cương của người Duy ngô nhĩ trong tương lai, thì số phận của đất nước VN, nhân dân VN còn bị TC thống trị hà khắc, thê thảm hơn dân Duy ngô nhĩ ở Tân Cương hiện thời. Vì TC biết VN là nước duy nhứt, dân tộc VN có mối thù truyền kiếp, VN từng đánh đuổi quân Tàu, có cả ngàn năm tiền cừu hậu hận đối với TC.
Nên người Việt chỉ có một chọn lựa chống TC để được sống tự do hay là chết ô nhục. Vì nếu người Việt để mất nước là mất tất cả. Ôn cố để tri tân. Nhớ tuần báo Le Nouvel Observateur có bài viết, nói theo lịch sử, Tân Cương là quốc gia dân tộc có tên là Cộng Hoà Tukestan, dân là Duy ngô nhĩ theo Hồi Giáo, nói tiếng Thổ nhĩ kỳ, người Trung Hoa xưa gọi là Đông Thổ vùng Tây Vực, để phân biệt với Trung Nguyên là nước Trung Hoa của người Hán. Thời CS Trung Quốc chiếm được chánh quyền Trung Hoa, Chủ Tịch Mao trạch Đông đưa quân qua chiếm đóng, thôn tính, sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, thành một tỉnh gọi là Tân Cương. Danh nghĩa Tân Cương là một vùng tự trị nhưng thực chất là một thuộc địa của TC, thuộc địa di dân, thuộc địa khai thác tài nguyên của TC. Hầu hết bộ máy cai trị do cán bộ đảng viên TC nắm. Tài nguyên khai thác ở Tân Cương chở về TQ. Người dân Duy ngô nhĩ trở thành phó thường dân TC, mất quê hương ngay trên quê cha đất tổ của mình. Người dân Duy ngô nhĩ thiết tha với tinh thần quốc gia dân tộc, muốn sống cho đáng kiếp làm người trong chế độ TC ngoại lai áp đặt và hà khắc, bọc lột, áp bức, chỉ còn có cách đấu tranh cho tự do hay là chết.
Còn VN trong thời CSVN bây giờ đang trên con đường dẫn đến một hố sâu kinh hoàng: mất nước vào tay TC. TC đã chiếm gần hết biển đảo. Đảng Nhà Nước CSVN bị TC thuần hoá, thần phục TC như “gia nô” của TC trên phương diện ngoại giao cũng như nội trị. CSVN chống lại người dân Việt yêu nước chống TC.
Bây giờ VN chỉ còn có nhân dân trong ngoài nước là lực lượng có thể cứu nước cứu dân. Nhưng CSVN chụp cho cái mũ là lực lượng thù địch âm mưu lật đổ nhà cầm quyền CS. Tinh thần bất khuất của dân Việt vẫn còn. Nôi lực nhân dân vẫn có. Chưa có lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm là quân Tàu xâm lược và nội thù là CSVN tay sai của TC.
Nhưng trong các cuộc chiến đấu đánh đuổi quân Tàu trong lịch sử VN luôn có anh hùng tạo thời thế, như Lê Lợi, Quang Trung, v.v... Trong 11 lần người dân Việt đứng lên đánh đuổi quân Tàu, đường đi cứu nước lúc nào cũng khó, nhưng “nếu đường đời bằng phẳng cả thì anh hùng hào kiệt cớ hơn ai”. Điều tối quan trọng là bền lòng vững chí, “đời ta không thành thì có con ta, con ta không thành là có cháu ta;” đó là tình liên đới của các thế hệ đối với quốc gia dân tộc./.(VA)
|
|
Nguồn: FB Trần Đình Thu
Guest
|
Post by Nguồn: FB Trần Đình Thu on Oct 11, 2018 12:45:11 GMT -6
NGHỆ THUẬT CHÍNH TRỊ KỲ DỊ VÀ ẢO DIỆU CỦA DONALD TRUMP
Ngày đăng: 2018-10-10
Nghệ thuật chính trị của Donald Trump là một điều gây kinh ngạc cho nhiều người. Có thể nói ông là một nhà chính trị kỳ dị và ảo diệu. Những nhà quan sát chính trị truyền thống đều hầu như dự đoán sai về ông. Ông như là một nhà ảo thuật. Có nhiều lúc người ta dự đoán ông sẽ thất bại hoàn toàn với những bước đi “không giống ai”, với những hành động, những việc làm kỳ quặc, phi truyền thống phi nguyên tắc, chắc chắn ông sẽ nắm chắc phần thua, nhưng kỳ lạ thay, kết quả cuối cùng thường là rất tốt đẹp. Thí dụ như vấn đề Triều Tiên. Ban đầu người ta thấy những bước đi của Trump chẳng có chút gì là của một nhà chính trị bản lĩnh, khôn ngoan, thậm chí còn có phần ngây ngô. Khởi đầu là những màn đấu khẩu như trẻ con rất không xứng đáng với vị thế của một tổng thống nước lớn, rồi sau đó là những hành động ngoại giao kỳ quặc bất nhất. Những tuyên bố thay đổi chóng mặt, hôm trước đe dọa hôm sau tâng bốc, hôm nay vui vẻ thân mật nhận lời đàm phán ngày mai hờn dỗi rút lời, hôm nay nói A ngày mai nói B... Những nhà quan sát chính trị lúc ấy hầu như đều kết luận ông mười phần thất bại cả mười trong ván cờ chính trị này. Nhưng ông đã làm được điều kỳ diệu mà nhiều đời tổng thống Mỹ chưa ai làm nổi là đàm phán với lãnh đạo Triều Tiên trong không khí vô cùng thân mật. Và sau đó tình hình Triều Tiên ngày càng ổn hơn. Cho đến nay thì chính ông Kim Jong Uh lại thiết tha gửi cho Trump đến 2 lá thư mong mỏi một cuộc gặp thượng đỉnh lần 2. Cho nên những vấn đề mà Trump làm, những cách mà Trump nghĩ, nếu với một cách nhìn nhận đánh giá truyền thống thì khó mà cảm hết ông. Nhất là với những nhà chính trị bảo thủ như McCain hay nhà báo chỉ biết hùng hục đánh đấm như Bob Woodward thì càng không hiểu Trump. Một điều gây ngạc nhiên khác cho các nhà quan sát chính trị là khả năng vượt qua sóng gió các cuộc khủng hoảng một cách phi thường mà hiếm có người thứ hai nào làm được như Trump. Bằng cách đắm mình trong niềm tin rằng mọi việc Trump làm đều đúng, Trump luôn tìm được lối ra cho trạng thái tinh thần, không bị cuốn vào cuộc khủng hoảng và bị đánh chìm bởi sự tuyệt vọng của chính mình. Chúng ta nhớ lại hồi ông tranh cử, ngay trong những thời khắc khó khăn nhất mà người bên ngoài hầu như nghẹt thở, thì ông vẫn giữ được những sắc thái tỉnh táo lạ thường để mà chiến thắng. Ngay cả khi nhiều tinh hoa của Đảng Cộng Hòa gào lên yêu cầu ông rút lui, thì ông vẫn không thèm trả lời trả vốn mà lừng lững bước đi như một con tê giác oai hùng cho đến phút cuối cùng đăng quang khiến ai nấy sững sờ kinh ngạc. Ngay cả khi ông thắng phiếu bầu rồi có người trong Đảng Cộng Hòa vẫn còn ngái ngủ kêu gào tìm cách ngăn không cho ông làm tổng thống. Trump kỳ dị và ảo diệu như thế đấy! Là Trump, cũng có nghĩa là không bao giờ thừa nhận sai lầm. Có những việc ông làm, các nhà quan sát bảo là sai nhưng ông nói là đúng. Ví dụ việc ông sa thải giám đốc FBI James Comey. Với những người chống đối ông thì cho rằng ông đã dùng chiến thuật chuyển bại thành thắng để tự tâng bốc mình và công kích những người chê bai ông. Chẳng hạn như bình luận viên Josh Dawsey của Washington Post. Nhưng dù nói như vậy đi nữa nhưng họ cũng phải công nhận là cuối cùng ông lại thành công và đây cũng là một điểm mạnh kỳ lạ của con người Trump. Từ ngày Trump ra ứng cử tổng thống Mỹ cho đến nay, chưa bao giờ sóng yên gió lặng với Trump. Điều mà người ta đòi hỏi ở một tổng thống Mỹ có lẽ là sự chỉn chu mực thước, nhưng đó là điều mà với Trump là quá xa xỉ. Là tổng thống, phải “ăn xem nồi ngồi xem hướng”, phải rào trước đón sau đủ điều nhưng với Trump thì quá khó. Trump sẵn sàng nói sẵn sàng dọa sẵn sàng ra lệnh nổ súng. Trump như một nghệ sĩ cháy lên hết mình trên chính trường vốn nghiêm ngặt như chốn giáo đường. Vì lẽ đó mà người Mỹ lo ngay ngáy về Trump và không ngừng gây khó khăn cho Trump, dù Trump đang là vị tổng thống của họ. Thiên tài Trump có lẽ không dành cho những suy nghĩ mực thước và truyền thống, sự bảo thủ và cố chấp. Nhưng thiên tài Trump chắc chắn sẽ làm được những điều kỳ diệu mà một trong số đó là đánh tan tành âm mưu thôn tính toàn thế giới của tay chơi có hạng Tập Cận Bình.
VIỆT NAM CÓ THỂ LÀ NƯỚC BỊ TRỪNG PHẠT NẾU KHÔNG SỚM THOÁT RA KHỎI TRUNG QUỐC
Bước đi tiếp theo của ông Trump trong thời gian tới sẽ là tìm giải pháp chấm dứt thời kỳ tự do thương mại giữa Mỹ với thế giới, áp dụng chính sách bình đẳng thương mại với những nước họ thấy cần thiết và chính sách bất bình đẳng thương mại lên một số nước khác. Trước hết ông Trump sẽ rút Mỹ ra khỏi WTO để Mỹ không còn phụ thuộc vào các luật lệ của tổ chức này, sau đó sẽ phân loại các quốc gia để tùy theo đó mà đàm phán lại. Hiện ông đang trên tiến trình làm việc đó khi hủy nhiều thỏa thuận thương mại trước đây để đàm phán lại. Thí dụ như ông rút Mỹ ra khỏi TTP đang đàm phán dở dang, ông đàm phán lại Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ NAPTA đã ký từ 1994 với Canada và Mexico... Trên tinh thần xét lại các quan hệ thương mại đó, ông Trump chắc chắn sẽ không chừa bất cứ hiệp định thương mại nào mà Mỹ đã ký với các nước trong quá khứ. Những trường hợp mà Mỹ bị thiệt hại do sự quá thoáng khi ký kết như NAPTA, hoặc các trường hợp có sự không minh bạch của các đối tác, phi kinh tế thị trường của các đối tác hay thậm chí đối tác có chính sách thù địch với Mỹ thì sẽ bị đàm phán lại hết. Với Việt Nam thì 2 bên có Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ký năm 2000, có hiệu lực vào năm 2001. Đến năm 2006, Việt Nam có mong muốn gia nhập WTO nên theo yêu cầu của phía Mỹ, Việt Nam đàm phán song phương thêm với Mỹ để ký Thỏa thuận song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006. Nên nếu Mỹ rút ra khỏi WTO thì chắc chắn Mỹ sẽ yêu cầu đàm phán lại từ đầu. Nhưng Việt Nam là một trong số rất ít các nước có hiện trạng nền kinh tế đặc thù khi giao thương với Mỹ. Đó là nền kinh tế không hoàn toàn thị trường nếu không muốn nói là phi thị trường. Và đặc biệt hiện nay Mỹ và Châu Âu vẫn chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Về mặt này Việt Nam tương đồng với Trung quốc. Sự bất bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước, sự duy trì một tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước quá lớn trong đó có doanh nghiệp của công an, quân đội, sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào hoạt động doanh nghiệp trong đấu thầu, giao đất... là những yếu tố khiến Mỹ và Châu Âu không công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Nên khi đàm phán lại với Mỹ, Việt Nam sẽ bị xem xét khắt khe yếu tố này. Với Trung quốc thì có đặc biệt hơn các nước khác. Khi tiến hành chiến tranh thương mại với Trung quốc, Mỹ không chỉ xét yếu tố phi thị trường của nước này mà còn xét thêm nhiều yếu tố khác trong đó quan trọng nhất là tuyên bố năm 2012 của ông Tập Cận Bình rằng sẽ đưa Trung quốc tiến lên xã hội chủ nghĩa vào năm 2049. Chúng ta nhớ lại thời kỳ Chiến tranh lạnh, thế giới chia làm 2 phe vì yếu tố này. Nay thế giới đã không còn 2 phe như trước nhưng Trung quốc manh nha tạo lập một phe mới, phe “xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung quốc” với mong muốn thuyết phục một số nước đi theo, đe dọa rất lớn đến sự tồn vong của thế giới tư bản, tạo nên sự lo lắng cho Mỹ và đồng minh nên trong nỗi sợ hãi đó, Mỹ đã tiến hành chiến tranh thương mại, hướng đến Chiến tranh lạnh với Trung quốc. Với Việt Nam thì do sự gắn kết quá chặt chẽ với Trung quốc, nên sẽ có nguy cơ bị Mỹ xếp vào cùng phe Trung quốc, đối diện với nguy cơ trừng phạt thương mại hoặc chí ít cũng bị đối xử bất bình đẳng thương mại. Vì lẽ đó, thoát Trung không chỉ là giải pháp tránh sự ảnh hưởng từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung mà còn để tránh một cuộc chiến tranh thương mại hay một sự đối xử bất bình đẳng thương mại nghiêm trọng áp thẳng lên Việt Nam. Chúng ta cần nhớ rằng trước khi tiến hành chiến tranh thương mại, giữa Mỹ và Trung quốc có quan hệ đối tác rất tốt đẹp cũng như Mỹ và Việt Nam hiện nay. Nhưng trong một thời gian rất ngắn Mỹ đã thay đổi, đưa Trung quốc trở thành một nước gây nguy hiểm với họ thay vì đối tác. Nên Việt Nam cũng không nên nghĩ rằng với quan hệ tốt đẹp hiện nay mà không bị trừng phạt. Hiện nay Việt Nam chẳng những quá thân thiết với Trung quốc mà còn tiến hành những hành động có khả năng gây hại cho nền kinh tế Mỹ, chẳng hạn việc đe dọa xóa sổ Google, Facebook ở Việt Nam. Riêng việc này Mỹ cũng đã có thể tiến hành trả đũa kinh tế Việt Nam rồi. Việc cho lưu hành đồng Nhân dân tệ ở biên giới vừa qua cũng gây ra nỗi ám ảnh rằng hàng hóa Trung quốc sẽ tràn qua Việt Nam theo đường tiểu ngạch rồi hợp pháp hóa nguồn gốc, đổ vào thị trường Mỹ. Vì vậy việc cải tổ nền kinh tế theo hướng thị trường hơn, cũng như cải tổ các vấn đề khác như nhân sự, giáo dục, y tế... theo hướng tránh sao chép mô hình Trung quốc là rất cấp thiết trong lúc này.
VÌ SAO NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC LẠI PHI ĐẠO LÝ VÀ THIẾU NHÂN VĂN ĐỂ BỊ MỸ TRỪNG PHẠT?
Như chúng ta đã biết, trong các lý do Mỹ trừng phạt thương mại Trung quốc, có lý do nền kinh tế Trung quốc không nhân văn và phi đạo lý. Trung quốc sản xuất ra các sản phẩm độc hại, gây nguy hiểm tiềm ẩn cho người tiêu dùng. Trung quốc lập ra đội quân đánh cắp công nghệ của đối tác thay vì đầu tư nghiên cứu hoặc mua bản quyền công nghệ. Trung quốc dùng bẫy nợ để bẫy các nước kém phát triển nhằm vơ vét tài nguyên thay vì hợp tác sòng phẳng đôi bên cùng có lợi… Ngay tại Trung quốc, bộ máy chính quyền nhận hối lộ để làm ngơ cho các doanh nghiệp tha hồ tự tung tự tác. Các nhà máy đưa chất bẩn vào sản phẩm, gây ô nhiễm môi trường mà không bị trừng phạt hoặc kiềm chế, các công ty ra sức chèn ép bóc lột người lao động, chạy theo lợi nhuận bất chấp đạo lý tình người. Các doanh nghiệp móc ngoặc với quan chức để được nhận các hợp đồng béo bở… Nói tóm lại, Trung quốc đã phát triển nền kinh tế của họ rất tệ hại, khó chấp nhận. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thương mại, ngoài những nguyên nhân khác. Câu hỏi đặt ra, vì sao Trung quốc lại như vậy trong khi nhiều nước khác lại phát triển kinh tế một cách đàng hoàng? Thí dụ như Nhật bản, đi lên từ một nền kinh tế kiệt quệ sau Thế chiến II, nhưng nước này vẫn giữ được các giá trị nhân văn trong quá trình phát triển. Họ không sản xuất hàng hóa gây hại người tiêu dùng, không đánh cắp công nghệ, không dùng bẫy nợ… Để trả lời câu hỏi này, chúng ta ngược trở lại đất nước Liên Xô thời kỳ chưa sụp đổ. Nhiều học giả cho rằng trước khi sụp đổ tình hình kinh tế Liên Xô khá ổn, mức tăng trưởng GDP tuy không cao nhưng chấp nhận được, không bức thiết phải cải cách kinh tế. Tuy nhiên lúc ấy Tổng bí thư Liên Xô Gorbachov và những người cùng chí hướng với ông vẫn tiến hành cải cách, lý do là vì họ nhận ra tình trạng suy đồi vô đạo đức của nền kinh tế Liên Xô. Nikolai Ryzhkov, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô thời kỳ này nhận định: “Chúng ta ăn cắp từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét, rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra – từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên”. Về sau ông mô tả thời kỳ đó là “tình trạng đạo lý của xã hội vào năm 1985 là nét đặc trưng hãi hùng nhất”. Còn Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze, một người thân cận với ông Gorbachov, cũng dằn vặt khổ tâm với tình trạng suy đồi đạo đức trong nền kinh tế Liên Xô. Ông nói với Gorbachov: “Mọi thứ đã thối nát rồi. Phải thay đổi thôi”. Vì thế mà Gorbachov đã tiến hành cải cách “một nền kinh tế có đạo lý hơn” cho Liên Xô chứ không phải là một nền kinh tế phát triển hơn. Tiến sĩ Leon Aron, Giám đốc Ban Nga học của Viện Nghiên cứu Chính sách American Enterprise Institute nói về sự cải cách này: “Đó là bước khởi đầu của một sự liều lĩnh đi tìm kiếm những câu trả lời cho các vấn nạn to lớn mà mọi cuộc cách mạng vĩ đại thường bắt đầu: Thế nào là một cuộc sống tốt đẹp, hợp với nhân phẩm? Cái gì tạo ra một trật tự kinh tế và xã hội công chính? Một nhà nước chính danh và đàng hoàng là như thế nào?” Và khi tiến hành cải tổ nền kinh tế Liên Xô sao cho “có đạo lý hơn”, các nhà cải cách Liên Xô đã đưa nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bước qua hẳn nền kinh tế tư bản. Nghĩa là, khó mà giữ một nền kinh tế vừa “xã hội chủ nghĩa” lại vừa có đạo lý. Như vậy đặc trưng của nền kinh tế Liên Xô, mẫu hình chung của các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, là một nền kinh tế suy đồi, phi đạo lý, mặc dù mục tiêu mà nó hướng tới là những gì tốt đẹp cho con người, như là xóa bỏ bóc lột, đem đến sự công bằng cho tất cả các thành viên trong xã hội... Do sự duy ý chí, đi ngược lại với quy luật tự nhiên, triệt tiêu cạnh tranh lành mạnh và thay vào đó bằng sự chỉ huy giáo điều, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải lấy sự dối trá, suy đồi và phi đạo lý làm cơ sở cho sự phát triển. Một câu hỏi nữa đặt ra là, sự suy đồi phi đạo lý là khi Liên Xô đang còn một nền kinh tế đậm chất xã hội chủ nghĩa, còn Trung quốc bây giờ đã cải cách kinh tế theo hướng thị trường rồi, vì sao vẫn không giảm bớt tính suy đồi phi đạo lý? Chúng ta phải quay lại năm 2012 và trước đó để trả lời câu hỏi này. Khác với Liên Xô và một số nước Đông Âu, Trung quốc mặc dầu có cải cách kinh tế từ sau 1978, nhưng Trung quốc vẫn nhất quyết trực chỉ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khi chuyển qua kinh tế thị trường, như Việt Nam chỉ gắn thêm cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì Trung quốc xác định thẳng là “nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” chứ không chỉ là “định hướng”. Tới năm 2012, thì ông Tập Cận Bình mạnh mẽ tuyên bố đưa Trung quốc tiến lên “chủ nghĩa xã hội”. Như vậy Trung quốc sẽ phải như Liên Xô thời kỳ 1985 trở về trước. Nhưng trước đây thì Liên Xô chỉ có quan hệ kinh tế với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa nên họ không làm quá như Trung quốc bây giờ, nên sự phi đạo lý của họ còn có giới hạn, còn với Trung quốc ngày nay thì đạt tới mức độ tệ hại gấp nhiều lần.
MỸ MUỐN ĐÁNH SẬP NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC CHỨ KHÔNG PHẢI MUỐN THU TIỀN THUẾ
Hiện nay có một số bài viết trên một số tờ báo nhà nước như Vietnamnet (Bộ thông tin truyền thông), VOV (Đài tiếng nói Việt Nam)… diễn đạt sai cuộc chiến thương mại Mỹ Trung. Thí dụ như họ cho rằng sở dĩ Mỹ phát động chiến tranh thương mại là để thu thuế từ Trung quốc và điều này sẽ gậy ông đập lưng ông vì tăng thuế thì giá tăng và người tiêu dùng Mỹ sẽ gánh chịu ... Vì thế tôi sẽ có một số bài viết phản biện lại. Trước hết nói về khái niệm. Chiến tranh thương mại hay chiến tranh mậu dịch là các bên sẽ lấy việc mua bán trao đổi hàng hóa làm phương tiện chiến tranh. Biện pháp chiến tranh bao gồm nhiều hình thức mà tăng thuế suất chỉ là một. Ngoài tăng thuế suất thì còn có các biện pháp như đặt ra điều kiện nhập khẩu để làm khó nhau, ngừng nhập khẩu một số mặt hàng vô điều kiện, hoặc gắt gao hơn nữa thì có thể tiến đến ngừng giao thương hoàn toàn, bao vây kinh tế, cấm vận kinh tế... Mục tiêu chiến tranh thương mại thì tùy theo từng cuộc chiến nhưng đối với cuộc chiến Mỹ - Trung, thì tôi cho rằng Mỹ không nhắm đến việc thu thuế mà muốn đánh sập nền kinh tế Trung quốc để nước này phải xuống hạng, thậm chí có thể trở thành một nước nghèo nàn lạc hậu. Vì thế mặc dầu dùng biện pháp tăng thuế nhập khẩu lên hàng hóa Trung quốc nhưng Mỹ không nhắm đến số tiền thuế thu được, dù trong thời kỳ đầu áp thuế 10% thì Mỹ có thu. Những người làm thuế đều biết, nếu muốn thu thuế thì phải làm sao cho đối tượng nộp thuế có thể tồn tại lâu dài với một mức thuế khả dĩ chấp nhận. Còn khi thuế suất tăng cao quá mức có thể chấp nhận thì khi đó bản chất là muốn triệt đường sống của đối tượng nộp thuế. Với mức thuế suất 25% đánh lên hàng hóa Trung quốc (mức thuế nhập khẩu trung bình vào Mỹ là 3,4%), thì hàng hóa Trung quốc có thể hết cửa vào Mỹ vì nó không thể cạnh tranh nổi với giá bán của hàng hóa các nước khác chỉ 3,4% thuế nhập khẩu. Do đó lập luận rằng khi tăng thuế thì hàng Trung quốc sẽ tăng giá và người tiêu dùng Mỹ sẽ gánh là một lập luận sai lầm. Và ngay cả khi mức 25% chưa đủ chế tài, thì Mỹ có thể tăng lên 30%, 35%, 40%... cho đến lúc nào mà hàng hóa Trung quốc hết đất sống ở thị trường Mỹ mới thôi. Bằng chứng mạnh mẽ nhất là hiện nay đơn hàng của các công ty Trung quốc giảm sút thê thảm cho thấy ảnh hưởng của chiến tranh thương mại như thế nào. Song song đó đơn hàng từ Mỹ đang đổ về các nước Đông Nam Á. NẾU TĂNG THUẾ SUẤT CHƯA ĐỦ, MỸ CÓ THỂ BAO VÂY KINH TẾ TRUNG QUỐC Một số hoạt động mang tính chất thăm dò của Mỹ hướng đến việc áp dụng các biện pháp mạnh khác như bao vây kinh tế Trung quốc đang triển khai. Thí dụ như thành lập mặt trận liên minh chống Trung quốc bao gồm các nền kinh tế mạnh như Liên Minh Châu Âu, Nhật, Úc, Canada, Ấn Độ… Và nếu cần Mỹ có thể tiến hành cấm vận Trung quốc, đưa nước này trở thành một nước bị cô lập kinh tế như Triều Tiên hiện nay. Để thực hiện việc này, Mỹ còn tính đến nước cờ hiểm là rút khỏi Liệp Hợp Quốc như ông Trump từng phát biểu vừa qua. Tuy nhiên hiện nay do việc áp thuế đang phát huy tác dụng nên những ngón đòn nói trên Mỹ chưa cần dùng đến. Vấn đề là sự hồi tâm của hàng ngũ lãnh đạo Trung quốc như thế nào. Nếu sau một thời gian mà họ vẫn khăng khăng nhất quyết đưa nền kinh tế Trung quốc đi theo đường lối phi đạo lý tiến lên XHCN như tôi phân tích ở bài trước thì Mỹ sẽ ra những ngón đòn nặng nề hơn mang tính kết liễu.
Sứ mệnh lịch sử hai tổng thống Mỹ Reagan và Trump: KHỞI ĐẦU THỜI ĐẠI CHỐNG LIÊN XÔ VÀ CHỐNG TRUNG QUỐC Nước Mỹ có những giai đoạn tĩnh lặng để phát triển kinh tế bình thường và những giai đoạn ồn ào để phát động chiến tranh nhằm duy trì vị trí siêu cường của mình. Những giai đoạn này đan xen nhau và theo truyền thống, các vị tổng thống thuộc phe Cộng Hòa sẽ làm nhiệm vụ phát động chiến tranh. Có 2 giai đoạn phát động chiến tranh thú vị của nước Mỹ là giai đoạn chống Liên Xô của Tổng thống Ronald Wilson Reagan và giai đoạn chống Trung quốc của Tổng thống Donald John Trump. Điểm chung đầu tiên của 2 vị tổng thống này là, họ đều có xuất phát điểm là những người hoạt động thành công trong những lĩnh vực phi chính trị khác trước đó. Reagan là một diễn viên đóng hơn 40 vai trong các bộ phim, là Chủ tịch Hội diễn viên điện ảnh Hoa Kỳ trong khi Trump như đã biết là một doanh nhân rất thành đạt. Cả hai người đều gây ra những tranh cãi dữ dội trong nội bộ nước Mỹ về đường lối kinh tế và quân sự của họ. Thuyết kinh tế của Reagan, được gọi là Reaganomics làm tăng chi tiêu quốc phòng, gây tranh cãi triền miên còn chính sách kinh tế và quốc phòng của Trump hiện cũng đang gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên 2 vị tổng thống đã khởi đầu những thời đại mới của nước Mỹ. REAGAN - THỜI ĐẠI CHỐNG LIÊN XÔ, TRUMP - THỜI ĐẠI CHỐNG TRUNG QUỐC Khi Reagan đắc cử tổng thống Mỹ vào năm 1981, nước Mỹ vừa trải qua một giấc ngủ mê trong thời tổng thống Dân Chủ Jimmy Cater. Lúc này lạm phát và thất nghiệp nghiêm trọng. Lạm phát có lúc lên đến 50%. Đồng thời nước Mỹ cũng trở nên yếu đuối, khiếp nhược trước sức mạnh Liên Xô, thậm chí là với Iran. Sự kiện sinh viên Iran chiếm giữ Đại sứ quán Mỹ, bắt giữ 56 nhà ngoại giao và viên chức Mỹ rồi giam đến 444 ngày là một vết ô nhục hằn lên niềm kiêu hãnh nước Mỹ vào thời đó. Tương tự như Reagan, khi Trump nhậm chức, nước Mỹ cũng rơi vào sự uy hiếp kinh tế nghiêm trọng của Trung quốc và bị Trung quốc làm nhục ngoại giao như trong sự cố đón tiếp Obama tại sân bay Hàng Châu. Một vị tổng thống Mỹ thăm Trung quốc không được phép dùng xe thang chuyên dụng mang theo còn quan chức tháp tùng thì bị lực lượng an ninh Trung quốc quát vào mặt “Đây là nước chúng tôi”. Đó là những tiền để để những lá phiếu cử tri Mỹ chọn 2 người Cộng Hòa vào sứ mệnh dẫn đắt nước Mỹ. Sáu mươi chín tuổi, Reagan mang theo câu slogan “Làm cho nước Mỹ mạnh trở lại” vào Nhà Trắng và bảy mươi tuổi, Trump với câu slogan dữ dội hơn “Làm cho nước Mỹ vỹ đại trở lại”. Ngồi vào ghế tổng thống, Reagan chưa bao giờ có một ngày bình yên vì hàng nghìn cuộc biểu tình nổ ra khắp nước Mỹ do dân chúng lo sợ cuộc chạy đua vũ trang sẽ đưa nước Mỹ đến thảm họa. Cũng như Trump ngày nay liên tục hết bị báo chí Mỹ thì đến bị phe Dân Chủ làm khó. Nhưng “ông già gân” Reagan ngày ấy và “con sói già” Trump bây giờ vẫn phớt tỉnh Ăng Lê để thực thi nhiệm vụ “tổng thống thời chiến” của họ. Bằng những quyết sách mạnh mẽ, Reagan đã đảo ngược chính sách mềm mỏng với Liên Xô dưới thời Cater, hủy bỏ những thỏa thuận mà chính phủ Cater đã ký với Liên Xô trước đó, tăng cường xây dựng các lực lượng quân sự Mỹ, tái lập chương trình oanh tạc cơ B-1 Lancer mà chính phủ Carter đã hủy bỏ, sản xuất tên lửa MX. Nhằm đáp trả việc Liên Xô triển khai tên lửa SS-20, ông cho triển khai tên lửa Pershing của NATO tại Tây Đức. Tháng 3/1983, ông thông qua Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (SDI), sử dụng các hệ thống có căn cứ trên không gian và mặt đất để bảo vệ Mỹ khỏi các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn hạt nhân liên lục địa. Trump cũng không hề kém cạnh Reagan khi cho đảo ngược nhiều chính sách yếu đuối của Obama và phát động chiến tranh thương mại với Trung quốc khiến cả thế giới lo lắng. Với chi tiêu quốc phòng cao ngất ngưỡng, Reagan đưa nước Mỹ trở lại thế đối đầu mãnh liệt với Liên Xô, mở ra một thời đại mới cho nước Mỹ: Thời đại chống Liên Xô. Cũng như vậy Trump đã đưa nước Mỹ bước vào thời đại chống Trung quốc. Một điều đáng lưu ý, tuy những chính sách của Reagan bị phản đối rất nhiều bởi dân chúng nhưng ông vẫn đứng vững 2 nhiệm kỳ và sau ông, Đảng Cộng Hòa vẫn có thêm 1 nhiệm kỳ tổng thống nữa để nước Mỹ đi tiếp cho hết giai đoạn chống Liên Xô đến khi Liên Xô tan rã, hoàn thành sứ mệnh “Đưa nước Mỹ mạnh trở lại”. Reagan là vị tổng thống Mỹ đầu tiên đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa, tiếp xúc với Tổng bí thư Liên Xô và cũng như vậy, Trump là vị tổng thống Mỹ đầu tiên gặp thượng đỉnh với lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Uh bây giờ. Vào ngày 12/6/1987, tại Bức tường Berlin, Reagan kêu gọi: “Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông mưu cầu hòa bình, nếu ông mưu cầu thịnh vượng cho Liên Xô và Đông Âu, nếu ông mưu cầu giải phóng, hãy đến đây nơi cổng thành này. Ông Gorbachev, hãy mở cánh cổng này. Ông Gorbachev, hãy phá đổ bức tường này!". Sau đó một năm, Reagan thăm Liên Xô, được nhân dân Liên Xô tiếp đón nồng hậu và ông có bài diễn thuyết về kinh tế tự do tại Đại học quốc gia Moskova, mở ra cho đất nước Liên Xô một chương mới: Từ bỏ chủ nghĩa xã hội. Điều đặc biệt, mặc dầu là một “tổng thống chiến tranh” nhưng Reagan thực hiện rất tốt các chính sách kinh tế là kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát dưới thời tổng thống tiền nhiệm xuống rất thấp. Lạm phát trung bình 12,5% dưới thời Carter được kéo xuống còn 4,4%, thất nghiệp được kéo giảm với biên độ trung bình 7,5%. Cũng như vậy, Trump cũng đã làm cho kinh tế Mỹ tốt hơn rất nhiều chỉ trong 2 năm. Reagan đã ra đi để lại niềm kiêu hãnh cho nước Mỹ còn Trump thì mới tại vị 2 năm, con đường phía trước ông còn dài, nhưng tin chắc nhân dân Mỹ sẽ tiếp tục ủy thác cho Trump hoàn thành nhiệm vụ “Làm cho nước Mỹ vỹ đại trở lại” đồng thời đưa Trung quốc trở thành một đất nước hiền hòa sống chung hòa bình với nhân loại thay vì là một đất nước hung hăng gây chiến.
GIẢI MÃ ẨN SỐ TẬP CẬN BÌNH
Trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, có 2 ẩn số là Donald Trump và Tập Cận Bình. Nhưng ẩn số Donald Trump có lẽ đã được bạch hóa khá nhiều trong khi ẩn số Tập Cận Bình vẫn còn rất mờ ảo. Việc giải mã nhân vật chính trị này là điều thú vị khi nghiên cứu về cuộc chiến Mỹ - Trung. Tôi thử làm việc này. Tôi sẽ bắt đầu từ nguồn gốc xuất thân của nhân vật. Tập Cận Bình sinh ngày 1/6/1953 tại Bắc Kinh, Trung quốc. Cha ông là Tập Trọng Huân, một khai quốc công thần của chế độ Mao Trạch Đông. Ông Huân đã kinh qua nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Mao như Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Phó chủ tịch Ủy ban Văn hóa - Giáo dục Trung ương. Vào năm 1959 ông Huân được cử giữ chức Phó thủ tướng. Tuy nhiên 3 năm sau, năm 1962 thì ông bị phế truất với tội danh chống Đảng cộng sản, chống Mao Trạch Đông. Mãi tới năm 1978 ông Huân mới được minh oan và được phục hồi công tác với chức vụ Phó Bí thư tỉnh ủy Quảng Đông. Sau đó dần dần ông được thăng tiến trở lại, vào Bộ chính trị và nhận chức Phó chủ tịch quốc hội. Vào những năm 1960, một cán bộ cao cấp và trung kiên với chế độ như ông Huân mà bị hàm oan như thế là một nỗi đau rất lớn với bản thân, gia đình và dòng họ. Vì lúc này lý tưởng cộng sản với người Trung quốc là một điều rất thiêng liêng. Những bản án chống Đảng là những bản án kinh khủng nhất. Đây chính là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng tới cuộc đời của ông Tập Cận Bình về sau này. Khi ông Huân bị kỷ luật, ông Tập Cận Bình mới lên 9 tuổi, tới khi ông Huân được phục hồi, thì ông Tập 25 tuổi. Với một đời người, thì khoảng thời gian từ 10,12 tuổi cho đến 15,17 tuổi, những yếu tố hoàn cảnh sống và những biến cố lớn lao trong gia đình sẽ có tác động mạnh đến việc định hình nhân cách về sau. Với ông Tập Cận Bình, quãng thời gian “định hình nhân cách” đó phải chứng kiến nỗi đau quá lớn của người cha như vậy, chắc chắn sẽ nung nấu ý chí rửa hận cho cha. Tuy nhiên việc “rửa hận” ở đây không có nghĩa là trả thù Đảng cộng sản, trả thù Mao Trạch Đông mà ngược lại là chứng tỏ sự trung thành vô hạn của mình đối với lý tưởng cộng sản, với lãnh tụ Mao Trạch Đông. Có như thế thì mới giải tỏa được nỗi uất hận của người cha khi bị vu oan. Là một “hạt giống đỏ” ông Tập dĩ nhiên rất thuận lợi trong việc leo lên những chức vụ cao, nhưng chỉ là “hạt giống đỏ” thôi cũng chưa đủ. Nhờ những ngày tháng chia sẻ nỗi đau với người cha đó, ông Tập đã tự rèn luyện hun đúc ý chí cho mình trở thành một người bản lĩnh, vừa biết luồn lách nhưng cũng biết ẩn mình để chờ thời cơ. Về phía ông Tập Trọng Huân, lẽ ra nếu không bị như thế, có thể ông sẽ leo tới chức vụ cao nhất. Nhưng ở đời đôi khi người tính không bằng trời tính. Vì vậy ông đành chấp nhận số phận. Tuy nhiên ông cũng sẽ nuôi khát vọng đứa con trai của mình một ngày nào đó sẽ lên tới chức vụ cao nhất, làm rạng danh gia đình dòng họ, để ông có thể cười mãn nguyện. Ông Tập Trọng Huân có lẽ là một người rất mưu lược mới có thể thoát qua tai nạn nặng nề mà người khác có thể sẽ mãi mãi ngã gục. Và chính ông mới là người kiến tạo vị trí cho ông Tập Cận Bình. Để làm việc đó, trước hết ông Huân ra sức vun quén cho ông Hồ Cẩm Đào để rồi ông này khi về hưu, nhường ghế lại cho con trai ân nhân mình. Vì vậy cho nên vào khoảng 2008 - 2009, lúc ông Hồ Cẩm Đào gần về hưu, chúng ta thấy bỗng nhiên nổi bật nhân vật Tập Cận Bình mà trước đó còn rất xa lạ với truyền thông. Lúc này ông Tập Cận Bình dù là Ủy viên thường vụ Bộ chính trị nhưng chỉ được phân công giữ chức Hiệu trưởng Trường Đảng Trung ương và sau đó mới được giữ chức Phó chủ tịch nước, nếu không được một người như ông Hồ Cẩm Đào nâng đỡ thì không thể nào bỗng dưng nổi bật lên trên chính trường như vậy. Nhưng để đưa một người không mấy nổi trội như ông Tập Cận Bình vào vị trí cao cấp nhất cũng không phải dễ. Dĩ nhiên sẽ có rất nhiều thế lực ngăn cản mà nổi bật nhất là thế lực của ông Giang Trạch Dân. Vì vậy ngoài việc đưa ông Tập vào “quy hoạch nguồn”, ông Hồ Cẩm Đào còn phải trang bị cho ông Tập một “bảo bối” thật lợi hại để không ai có thể phản đối. Bảo bối đó chính là sự cam kết của ông Tập Cận Bình sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Trung quốc vào năm 2049 mà ông Tập Cận Bình công bố vào năm 2012 khi nhận chức Tổng bí thư. Từ đây chúng ta thấy phân tích của các chuyên gia trên thế giới rằng ông Tập đã vội vã làm lộ thiên cơ quá sớm để bị ông Trump tấn công là không đúng. Ông Tập không còn cách nào khác mà buộc phải lộ thiên cơ để lấy ghế và giữ ghế. Ngay cả kế hoạch “Một vành đai một con đường”, “Chế tạo tại Trung quốc vào 2025” cũng là bất đắc dĩ phải lộ để giữ ghế “Hoàng đế trọn đời”. Tuy nhiên có lẽ một lần nữa định mệnh lại ứng vào người con của ông Tập Trọng Huân sau 56 năm, rằng người tính không bằng trời tính, khi sự nghiệp đang lên như diều gặp gió thì một ông trùm kinh doanh bất động sản tận bên trời Tây bỗng nhiên trở thành tổng thống Mỹ rồi nhảy ra thách thức: Có Tập thì không có Trump có Trump thì không có Tập. Ông Tập Cận Bình sẽ đối phó thế nào với ông Trump? Tôi sẽ phân tích trong một bài khác.
VÌ SAO CĂNG THẲNG MỸ - TRUNG LÀ VÔ PHƯƠNG CỨU CHỮA?
Căng thẳng thương mại trên thế giới không phải là hiếm xảy ra. Nhưng căng thẳng Mỹ - Trung là chuyện hoàn toàn khác với các căng thẳng thương mại giữa các nước khác. Đó là sự căng thẳng không thể giải quyết bằng việc đàm phán để thêm cái này bớt cái kia trong giao thương làm ăn buôn bán, không thể ngồi lại để đi đến thỏa thuận gì đó với nhau. Vì sao vậy? Vì đó là mâu thuẫn về mặt bản chất của 2 nền kinh tế. Một loại mâu thuẫn “không đội trời chung”. Chúng ta hãy đọc lại đoạn ông Trump phát biểu về Trung quốc tại cuộc họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vừa qua. Chỉ một đoạn ngắn thôi nhưng hàm chứa hầu như tất cả: “Việc Trung Quốc làm biến dạng thị trường và cách làm ăn của họ là không thể dung thứ”. “Làm biến dạng thị trường”, cụm từ này có sức nặng tố cáo ghê gớm, chứ không phải là gây ra bất bình đẳng thương mại, không phải là hơn thua nhau về giá cả về thuế má về lợi nhuận… một cách nhẹ hều để mà có thể ngồi với nhau “nói chuyện phải quấy” như Bố Già Don Vito Corleone hay làm. “Làm biến dạng thị trường”, xét riêng chỗ này chúng ta có thể khẳng định rằng mọi cuộc đàm phán Mỹ - Trung nếu có xảy ra vào tuần tới tháng tới hay năm tới thì đều là chuyện đùa cợt với nhau cho vui, chứ không hề là chuyện nghiêm túc. Khi ông Trump kết luận nền kinh tế Trung quốc làm “biến dạng thị trường” thì điều đó có nghĩa rằng ông Trump không chấp nhận nền kinh tế đó nữa rồi. Cũng như khi Bố Già Don Vito Corleone đưa hai tay lên trời than rằng “hết nói chuyện phải quấy với anh chàng này được nữa rồi”. Tuy vậy có điều này, dầu Bố Già Trump không thể nói chuyện phải quấy với anh Tập, nhưng do nền kinh tế đó là của nước anh Tập chứ không phải của các nước đồng minh Mỹ, nên Bố Già Trump mặc kệ anh Tập, muốn làm gì với nền kinh tế ấy thì làm, Bố Già Trump không can thiệp như Bố Già Corleone. Nhưng cần nhớ điều này, Bố Già Trump sẽ không để cho nền kinh tế ấy tương tác với nền kinh tế nước Mỹ và hơn thế nữa, không để cho nền kinh tế ấy hòa vào nền kinh tế thế giới. Vì nó sẽ giết chết nền kinh tế thế giới trong đó có nền kinh tế nước Mỹ. Đó là điều mà Bố Già Trump phải làm. Để nền kinh tế Trung quốc không tương tác với nền kinh tế Mỹ và không hòa vào nền kinh tế thế giới thì có cách gì khác ngoài một cách duy nhất là cấm vận nó? Chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi, nếu vậy anh Tập không chấp nhận thì sao? Ai đã đọc cuốn Bố Già thì cũng biết, Corleone sẽ làm gì trong trường hợp này. Nước Mỹ hoàn toàn có đủ uy lực để làm mọi điều như Don Vito Corleone đã làm trong tiểu thuyết The Godfather của tác giả Mario Puzo. Cứ nhìn cái cách Bố Già Trump phát biểu trên Diễn đàn Liên Hợp Quốc thì đủ hiểu thế nào. Sorry vì status này nhiễm chút văn phong dao búa của Mario Puzo nhé mọi người.
PHẢI CHĂNG ÔNG TRUMP MUỐN XÓA SỔ SỚM LIÊN HỢP QUỐC VÌ TRUNG QUỐC?
Liên Hợp Quốc được thành lập bởi sáng kiến của Mỹ vào sau Thế chiến I với tên gọi Hội quốc liên, gồm 1 số ít nước. Nó tồn tại cho đến khi Thế chiến II bùng nổ thì giải tán. Sau Thế chiến II nó được thành lập lại bởi Mỹ, Liên Xô và Anh quốc, với khoảng 50 nước. Ngày nay tổ chức này đã bao gồm gần hết các nước trên thế giới. Theo thống kê mới đây thì có 193 nước. Cơ quan quan trọng nhất của Liên Hợp Quốc là Hội đồng bảo an. Hiện cơ quan này có 5 thành viên trường trực là Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung quốc. Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc là cơ quan chính trị của Liên Hợp Quốc, có quyền lực rất lớn, lớn hơn cả Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Những nghị quyết của hội đồng này bắt buộc các nước thành viên phải thực hiện. Tuy nhiên muốn như thế thì các nghị quyết phải được sự đồng thuận của cả 5 thành viên thường trực. Nếu chỉ có 1 thành viên bỏ phiếu chống, nghị quyết sẽ không được thông qua. Điều khiến Mỹ thường bực bội là Trung quốc hay đối đầu với Mỹ bằng cách dùng quyền thành viên thường trực để bỏ phiếu phủ quyết các nghị quyết mà Mỹ mong muốn được thông qua. Với một ông tổng thống – học giả như Obama thì điều này không làm ông mấy bận tâm, nhưng với Trump thì khác. Một nhà chính trị khôn ngoan như Trump sẽ khó mà chấp nhận điều này. Vì trong khi Mỹ bỏ ra phần ngân sách hoạt động cho tổ chức này lên đến 25%, gấp 5 lần phần Trung quốc đóng góp, thì vẫn chỉ 1 phiếu như Trung quốc, để rồi thường xuyên bị Trung quốc chơi khăm bỏ phiếu phủ quyết đối đầu. Đó là chưa kể 1 nước có nền kinh tế phá hoại kinh tế toàn cầu, có tình trạng nhân quyền tồi tệ nhất thế giới lại nằm trong nhóm bỏ phiếu đi phán xét nước khác tốt hơn mỉnh. Vì thế Trump nhiều lần phàn nàn về tổ chức này. Có lần Trump nói Liên Hợp Quốc chẳng khác gì một câu lạc bộ họp mặt vui chơi. Trump từng dọa sẽ rút khỏi Liên Hợp Quốc. Có chuyện mắc cười như vầy. Hồi Trump mới dọa rút khỏi LHQ, có mấy tờ báo Việt Nam viết bài phân tích là nếu Trump rút thì nước Mỹ sẽ thiệt vì từ bỏ vai trò thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ. Ôi Trump đâu có ngây ngô đến vậy! Mỹ mà rút thì các nước sẽ ào ào rút theo, sau đó Mỹ sẽ lập cái mới chứ! Đó là chuyện hồi năm ngoái. Còn năm nay thì khác xa rồi. Vì năm nay có vấn đề Trung quốc. Năm nay Mỹ và Trung quốc là kẻ thù của nhau chứ không chỉ là hục hặc nhau như năm ngoái năm kia. Cho nên năm nay việc thành lập một “Liên Hợp Quốc mới” có thể trở nên cấp thiết, vì sẽ xảy ra tình trạng Trung quốc bỏ phiếu phủ quyết toàn bộ những nghị quyết mà Mỹ muốn thông qua. Vả lại 2 anh kẻ thù nhau không thể ngồi chung phòng họp với nhau được. Rồi thì chiến tranh sẽ leo thang, đâu chỉ là thương mại! Hai anh kẻ thù nhau vừa ngồi họp chung bên nhau vừa chỉ đạo quân bên này đánh bên kia thì hài lắm! Cho nên tôi nghĩ Trump đang lên kế hoạch cho việc lập một cái mới. Chúng ta thấy một dấu hiệu rằng ngày 30 vừa qua, bà Thủ tướng Đức Merkel phát biểu là bà lo ngại Liên Hợp Quốc sẽ bị phá vỡ. Nhưng có lẽ ý bà Merkel không nằm ở chỗ lo bị “phá vỡ” mà lo “chưa lập kịp cái mới”. Bà nói: “Dĩ nhiên là LHQ không phải là một tổ chức hoàn hảo. Nhưng tôi tin rằng việc phá hủy một thứ gì đó trong khi chưa phát triển một thứ khác mới hơn là điều cực kỳ nguy hiểm”. Đấy! Như vậy phải chăng đây là những tín hiệu sớm phát ra cho việc thúc đẩy thành lập một tổ chức toàn cầu mới trong đó không có mặt Trung quốc? Rất có thể lắm chứ! NGÀNH SẢN XUẤT TRUNG QUỐC ĐÃ NGẤM ĐÒN CHIẾN TRANH Đó là những tín hiệu mới nhất trong mấy ngày qua. Để đánh giá về tình hình này, chúng ta có hai chỉ số cần tìm hiểu: chỉ số Official PMI và chỉ số Caixin PMI. Đây là những chỉ số chuyên sâu về kinh tế, chúng ta chỉ cần biết một cách tổng quát là chúng liên quan đến tình hình đơn hàng mới, sản lượng, việc làm… của các ngành sản xuất của một nền kinh tế. Chúng ta sẽ căn cứ theo đánh giá của các chuyên gia để nhận định về tình hình Trung quốc. Theo tờ Nikkei Asian Review, Official PMI của tháng 9 thấp nhất trong 2 năm qua, còn 50,8 điểm. Caixin PMI cũng sụt giảm mạnh trong vòng 1 năm qua, còn 50 điểm. Và Nikkei Asian Review cho rằng như thế thì các ngành sản xuất Trung quốc đang ngấm đòn chiến tranh thương mại. Trước đó Bloomberg cũng công bố số liệu cho thấy tăng trưởng lợi nhuận công nghiệp của Trung Quốc suy giảm trong tháng 8 và tháng 9. Vào thời gian này, dĩ nhiên Trung quốc chưa thể xuất hiện các hiện tượng suy thoái kinh tế dễ nhận thấy như hàng loạt nhà máy đóng cửa, người thất nghiệp tràn lan mà chỉ thể hiện trên các chỉ số thống kê của chính phủ Trung quốc công bố và các cuộc điều tra của các đơn vị điều tra thị trường độc lập của nước ngoài. Về các chỉ số, một số nhà phân tích cho rằng bức tranh thực tế có thể sẽ tồi tệ hơn vì chính phủ Trung quốc có thể giảm bớt mức kịch tính để trấn an dân chúng. Tuy nhiên một số chuyên gia có thể có các nhận định chân thực hơn. Chẳng hạn như ông Long Guoqiang, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Trung Quốc. Ông Long Guoqiang đánh giá, tác động của chiến tranh thương mại đối với những nhà máy chuyên sản xuất hàng xuất khẩu Trung quốc sẽ rất khắc nghiệt. “Một số sẽ cắt giảm sản xuất, một số sẽ cắt giảm công nhân, và một số thậm chí có thể đóng cửa”, ông Long nói. Chính phủ Trung quốc dĩ nhiên đang áp dụng những chiến thuật chiến lược chống lại sự suy thoái này, chẳng hạn như kích thích tiêu dùng nội địa, nhưng các chuyên gia cho rằng sẽ rất khó để Trung quốc thực hiện thành công. Một bức tranh rất tồi tệ sẽ sớm xuất hiện trong vài tháng nữa là điều chắc chắn vì bây giờ mới đoạn đầu cuộc chiến.
GỌNG KÌM TOÀN DIỆN CỦA MỸ ĐANG XIẾT CHẶT TRUNG QUỐC
Thật tuyệt vời khi đây là tựa đề bài báo mới xuất bản trên mạng chừng hơn một tiếng trên một tờ “báo nhà nước” của Việt Nam vốn rất dè dặt lâu nay. Vì vậy tôi mượn cái tựa cực hay mà bản thân tôi cũng không thể nghĩ ra để đặt tựa cho bài báo của tôi mà không cần thêm từ nào nữa. Vâng, đúng là Mỹ đang xiết các gọng kìm lên Trung quốc ngày một chặt hơn và dĩ nhiên Trung quốc cũng đang ngày một ngộp thở hơn. Dấu hiệu của một “cuộc chiến lớn”. Trên thực tế các nhà phân tích đã coi như Mỹ - Trung bước vào giai đoạn đầu Chiến tranh lạnh rồi, không còn là chiến tranh thương mại nữa. Và tốc độ thì rất là dồn dập, nhanh chóng, tưởng như Bố Già Trump đang gác toàn bộ những lo toan khác lại để chỉ lo mỗi việc này thôi. Có lẽ không cần nhắc lại vấn đề thương mại nữa nhỉ, vì lộ trình đã rõ. Sau 200 tỷ USD sẽ là 267 tỷ USD là điều không cần bàn cãi. Việc quan trọng tiếp theo là mở mặt trận liên minh với EU, Nhật bản để chặn WTO như tôi vừa nói trong mấy ngày trước cũng đã bàn thảo cấp đại diện thương mại Mỹ, Nhật và EU. Hiệp định NAFTA mới ký với Canada và Mexico cũng đã có điều khoản cấm chơi với Trung quốc. Sẽ có nhiều cuộc chơi tương tự về kinh tế như vậy nữa với Úc, Ấn Độ… Về quân sự đã và đang có những dấu hiệu “thật đáng quan ngại”. Đó là việc tàu chiến và máy bay ném bom Mỹ, tàu chiến của đồng minh Mỹ liên tục thách thức Trung quốc tại Biển Đông, tại khu vực Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đáng nói hơn là có mấy sự kiện diễn ra ngay trước ngày lễ Quốc Khánh của Trung quốc khiến giới quan sát ngỡ ngàng và thú vị. Leo thang hơn là hai bên đã hủy những cuộc gặp gỡ viếng thăm cấp Bộ quốc phòng của nhau. Đây có thể nói là những dấu hiệu rất nghiêm trọng. Nó chính là những cơn gió giật trước khi cơn bão lớn ập đến. Song song với việc thách thức quân sự và đóng băng ngoại giao quốc phòng đó, Bố Già Trump lại chơi một đòn mà có lẽ bác Tập vô cùng bức xúc là bán tới 1,3 tỷ USD vũ khí cho Đài Loan. Đòn này quá ư là chọc giận bác Tập. Nhưng chưa hết. Bố Già Trump còn đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các đối tác khu vực, như Nhật Bản, Australia và Anh Quốc nữa chứ. Hàn Quốc cũng có thể sẽ tham gia. Cần nhắc lại vào giữa tháng 9, tàu khu trục của Hàn Quốc đã tiến sát các vùng biển mà bác Tập đơn phương tuyên bố là của bác ý. Mới đây Đô đốc Hải quân Mỹ Philip Davidson – tư lệnh Bộ chỉ huy Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương còn ký một thỏa thuận quốc phòng mới với Philippines nhằm tăng số lượng các cuộc tập trận chung của hai nước thêm 20 cuộc tập trận. Rất nghiêm trọng phải không? Đó là các tin tức quân sự. Hôm qua vừa rộ tin các cố vấn Nhà Trắng từng đề xuất cấm toàn bộ sinh viên Trung quốc đến Mỹ học hành nhưng Bố Già Trump bảo là nặng quá. Nhưng nay vì sao tin này được tiết lộ ra ngoài? Phải chăng là thăm dò dư luận trước khi quyết định? Cách hé tin để thăm dò này là cách quen thuộc của giới chính trị mà. Đòn này mà áp dụng thì là siêu nghiêm trọng nhé, tuy rằng nhìn thì có vẻ dân sự thôi. Thập diện mai phục là tên một bộ phim của Trung quốc hồi mấy năm trước có vẻ đang ứng vào đây rồi. Bao giờ thì rút toàn bộ Đại sứ quán Mỹ tại Trung quốc về vậy hở Bố Già Trump? Ảnh: Bố Già Trump có lúc rất trầm ngâm trong cuộc chiến. Thực lòng cũng thấy thương người dân Trung quốc nhưng biết làm sao được khi nhân dân Trung quốc là con tin của nhóm lãnh đạo hung hăng ấy.
NƯỚC CỜ CUỐI TRONG ĐẤU PHÁP: BỐ GIÀ TRUMP CÓ DÁM RA LỆNH TẤN CÔNG QUÂN SỰ TRUNG QUỐC HAY KHÔNG?
Cho đến giờ này, quan sát những việc làm liên quan đến đối ngoại của Trump trong thời gian qua, chúng ta nhận thấy điều này: Trump chuẩn bị cho cuộc chiến với Trung quốc một cách cẩn thận và tỷ mỉ đến từng chi tiết từ lâu lắm. Nguyên tắc chung là mọi mũi tên bắn ra dù chĩa về đâu, bay về hướng nào thì cuối cùng đích đến vẫn là Trung quốc. Trong vòng hơn một năm rưỡi ngồi ghế tổng thống, Trump không hề động đến Trung quốc mà chỉ làm những việc loanh quanh. Nhưng những việc loanh quanh ấy bây giờ nhìn lại đều có ý nghĩa dọn dẹp cho một cuộc chiến tranh lớn: Chiến tranh với Trung quốc. Thoạt đầu là những bước đi ngoại giao thân thiện với Nga. Vào lúc ấy không ai nghĩ rằng bước đi ấy là tranh thủ kéo Nga về phía Mỹ để sau này Mỹ đối đầu với Trung quốc thì không gặp cản ngại từ Nga. Nhưng khi ấy phía Đảng Dân Chủ Mỹ nhảy chồm chồm lên vì không hiểu Trump. Nhiều người nghĩ Trump không biết làm tổng thống chứ không phải là Trump đang có những nước cờ độc. Sau khi thân thiện với Nga xong, Trump bắt đầu chuyển qua Triều Tiên. Nước cờ Triều Tiên đi sau nước cờ Nga đúng là quá tuyệt. Chúng ta thử hình dung nếu nước cờ Triều Tiên đi trước nước cờ Nga thì sao? Thật là không ổn chút nào vì Nga vẫn thân cận với Triều Tiên. Cho nên phải đi nước cờ Nga trước, thì nước cờ Triều Tiên mới thắng. Nhưng cả 2 nước cờ Nga và Triều Tiên ấy cũng để phục vụ cho nước cờ lớn: nước cờ Trung quốc. Ngay sau khi Kim Jong Uh tỏ rõ thiện chí với Mỹ, Trump không bỏ phí một phút giây nào, lập tức tiến hành những bước đi đầu tiên trong nước cờ đấu với Trung quốc. Vừa đấu với Trung quốc, Bố Già Trump đi tiếp những nước cờ tưởng như không liên quan gì đến Trung quốc nhưng thật ra là rất liên quan. Đó là nước cờ với Iran. Trước đó để lót đường Trump cũng đã đi một hai nước nhỏ với Iran, nay Trump đi thêm những nước cương quyết hơn. Tuy vậy Trump không có ý đấu với Iran vì Iran chẳng là cái đinh gì với Mỹ. Trump đấu với Iran là gián tiếp đấu với ông kẹ Trung quốc mà thôi. Vì vậy chúng ta thấy Trump chẳng kéo binh hùng tướng mạnh gì với Iran cả mà chỉ đơn giản cấm vận dầu mỏ Iran. Nước cờ này Trump chặn yết hầu Trung quốc trong vấn đề nhiên liệu cho nền kinh tế. Hiện nay giao dịch dầu mỏ giữa Mỹ và Trung quốc đã ngừng, Iran có bán dầu cho Trung quốc không? Nếu Iran quyết bán và Trung quốc quyết mua thì sao? Tôi cho rằng đây chính là cái bẫy chiến tranh. Cũng như thế, khi Trump yêu cầu hủy bỏ NAFTA để đàm phán lại, nhiều người nhảy choi choi lên bảo là Trump chơi luôn cả những đồng minh thân thiết là Canada và Mexico. Có người bảo Trump có vấn đề tâm thần. Nhưng khi NAFTA mới được ký lại, chả có gì thay đổi nhiều ngoài việc yêu cầu các đối tác không được chơi với Trung quốc, mọi người mới ngã ngửa ra. Có nhiều thiên tài bị những “người trần mắt thịt” đánh giá là tâm thần như thế đấy. Bây giờ thì Trump đang đi những nước cờ chính nhắm vào Trung quốc, công khai thách thức Trung quốc cả về mặt quân sự. Biển Đông đang có sóng lăn tăn, khi nào thì có sóng lớn? Mọi người bảo Trump có dám ra lệnh tấn công Trung quốc bằng vũ khí hay không? Nhiều người lập luận, thời đại bây giờ đối thoại thay cho đối đầu, chiến tranh quân sự ít dùng lắm. Vâng, đúng là ít dùng thật nhưng không phải là không dùng. Khi cần thì vẫn phải dùng. Vấn đề là khi nào thì dùng và dùng thế nào. Và hẳn có người sẽ muốn vặn tôi, nói vậy thì sao Trump không bùm Bắc Hàn? Ồ, câu hỏi này rất hay nhưng bùm Bắc Hàn không phải là khôn ngoan. Bùm Trung quốc mới là đấu pháp tuyệt diệu. Trong một trận chiến, người ta có thể dùng kế ly gián để tách dần những chiến binh nhỏ ra khỏi đối thủ mạnh nhất rồi vận dụng toàn bộ nội công kết liễu đối thủ mạnh này. Đó mới chính là dùng đấu pháp tuyệt. Nhưng chiến tranh cũng có thể không xảy ra nếu Tập Cận Bình đầu hàng trước khi Trump dốc toàn bộ binh lực để kết liễu.
VÔ PHƯƠNG CHỐNG ĐỠ, TRUNG QUỐC DÙNG KẾ “ÁM SÁT THỦ LĨNH” CÀNG CHỌC GIẬN NƯỚC MỸ HƠN
Trước hết tôi muốn mọi người chia vui với một thành công của Đảng Cộng Hòa và tổng thống Donald Trump. Sau nhiều rắc rối, cuối cùng ông Kavanaugh đã được Thượng viện Mỹ bỏ phiếu chuẩn thuận vào Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ với tỷ lệ phiếu sít sao. Đây là một thắng lợi của Đảng Cộng Hòa và cá nhân tổng thống Trump, vì việc này về sau sẽ rất có lợi cho việc triển khai các chính sách của tổng thống Trump và Đảng Cộng Hòa. Thắng lợi này cho thấy 2 điều. Một là chính trường Mỹ gần đây luôn bị nhiễu loạn bởi thông tin theo hướng bêu xấu chính quyền tổng thống Trump. Hai là sau mỗi giai đoạn nhiễu loạn, thường có một cái kết tốt cho tổng thống Trump và Đảng Cộng Hòa. Vụ ông Kavanaugh chưa thấy ai nói nó có liên quan đến sự giật dây bên ngoài hay không, nhưng nó xảy ra trong bối cảnh mà nước Mỹ báo động về việc Trung quốc tìm cách can thiệp “lật đổ” tổng thống Trump. Hôm mùng 5 vừa qua, Phó tổng thống Mỹ Mike Pence đã phải lên diễn đàn để tố cáo việc này. “Nói thẳng ra, sự lãnh đạo của Tổng thống Trump đang có hiệu quả; và Trung Quốc muốn một Tổng thống Mỹ khác. Trung Quốc đang can thiệp vào nền dân chủ của Mỹ” - Phó tổng thống Mỹ Mike Pence bức xúc nói. Thật ra cách làm của Trung quốc cho thấy sự bế tắc trong chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, rằng họ hết cách chống đỡ theo tinh thần thượng võ mà đang dùng những mưu kế vừa thâm độc nhỏ nhen nhưng cũng vừa tuyệt vọng. Là cách làm “ám sát thủ lĩnh” khi không thể chống chọi nổi với đoàn quân. Hẳn mọi người còn nhớ rõ bài phát biểu của tổng thống Donald Trump tại diễn đàn Liên Hợp Quốc vào cuối tháng 9 vừa qua? Ông Trump đã chỉ rõ nguyên nhân chiến tranh là vì Trung quốc tồn tại một nền kinh tế phá hoại các nền kinh tế khác. Nhẽ ra, với những phân tích thẳng thắn về nguyên nhân chiến tranh của ông Trump như vậy, ông Tập Cận Bình và bộ sậu phải ngồi suy nghĩ theo hướng cải tà quy chính, hướng đến một cách giải quyết lương thiện, đó là tìm giải pháp loại bỏ những mầm mống gây ra tính độc hại của nền kinh tế, để thế giới không còn lo lắng về mình nữa, để Trung quốc có thể chơi cuộc chơi trong sáng minh bạch cùng thế giới. Đó cũng là cách giải quyết khủng hoảng của nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Uh vừa qua khi nhận ra đâu là chính nghĩa đâu là phi nghĩa. Tiếc thay, ông Tập Cận Bình không thể là một người văn minh và lương thiện như thế. Chìm đắm trong giấc mơ sẽ xây dựng thành công nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung quốc”, ông ấy tiếp tục lao vào con đường tìm kiếm những mưu ma chước quỷ mới để thực hiện cho bằng được giấc mơ đáng sợ của ông ấy. Và “ám sát thủ lĩnh” là cách làm của ông Tập. Nhưng có lẽ tình báo Mỹ đã kịp phát hiện âm mưu này và Phó tổng thống Mỹ Mike Pence đã quyết định công khai tố cáo nó với toàn thế giới. Việc này sẽ đẩy mâu thuẫn Mỹ - Trung lên một bước mới khó hàn gắn hơn nhiều mặc dầu nguyên thủy nó đã quá khó hàn gắn rồi. “Nhưng hôm nay tôi xuất hiện trước các bạn vì người dân Mỹ xứng đáng được biết… ngay khoảnh khắc này, Bắc Kinh đang triển khai một cách tiếp cận của toàn bộ chính quyền, sử dụng các công cụ chính trị, kinh tế và quân sự, cũng như tuyên truyền, để thúc đẩy sự ảnh hưởng và gặt hái lợi ích ở Hoa Kỳ. Trung Quốc cũng áp dụng sức mạnh này theo những cách chủ tâm hơn bao giờ hết, để áp đặt sự ảnh hưởng và can thiệp vào chính sách và chính trị nội bộ của đất nước chúng ta” – Phó tổng thống Mỹ nói. Với cách nói này, người Mỹ đã xác lập tính nghiêm trọng của cuộc chiến. Và đàm phán giờ đây chỉ còn là những gì thuộc về thời đã qua.
|
|
TG Nguyen Huu Dinh - BaCayTruc
Guest
|
Post by TG Nguyen Huu Dinh - BaCayTruc on Oct 12, 2018 14:51:43 GMT -6
SA LƯỚI NGHỊ QUYẾT 36 CỦA VIỆT CỌNG 3 Việt kiều lãnh 105 năm tù tại Philadelphia
Ngày đăng: 2018-10-12
Vụ án Nexus Technologies, một công ty kinh doanh xuất khẩu của 3 anh em ruột người Mỹ gốc Việt họ Nguyễn ở tiểu bang Pensylvania ,Hoa Kỳ, đang làm xôn xao dư luận ở Mỹ và Châu Âu. Hãng tin Mỹ AP và hãng tin Pháp AFP đều đưa tin này hàng đầu. Toà án Philadelphia đã bắt đầu xử, nghe cáo trạng, lấy khẩu cung và điều tra sâu thêm, dự kiến đến tháng 7 sẽ có thể tuyên án. Vụ án này rất quan trọng vì vừa là một vụ buôn lậu lớn, vừa là một vụ rửa tiền lớn, còn thêm là một vụ hối lộ các quan chức Hà Nội. Vụ này liên quan đến an ninh và quốc phòng của nước Mỹ, vì hàng xuất khẩu lậu từ Mỹ vào Việt Nam bao gồm những thiết bị kỹ thuật điện tử quân sự hiện đại, lên đến mấy chục triệu đôla Mỹ, như: trang thiết bị để vẽ bản đồ dưới mặt biển, thiết bị dò, tháo gỡ bom mìn, dò tìm các loại hóa chất, phụ tùng trực thăng, thiết bị viễn thông lắp đặt trên vệ tinh ...Luật pháp Mỹ rất nghiêm đối với lọai tội phạm này. Đã có riêng một bộ luật để xử, mang tên Foreign Corrupt Practices Act - Luật trừng phạt tội hối lộ cho người nước ngoài - viết tắt là FCPA. Bài này bàn thêm về ảnh hưởng của vụ án đối với mối quan hệ giữa chế độ độc đảng cai trị đất nước với bà con ta trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Ðây là một vụ án tiêu biểu cho việc thực hiện Nghị quyết 36 của Ðảng Cộng sản, với nội dung ca ngợi 3 triệu bà con ta là “khúc ruột yêu thương của Tổ quốc”, kêu gọi các nhà kinh doanh Việt kiều mang tiền của về kinh doanh, tham gia xây dựng quê hương. Chắc hẳn 3 anh em ruột các ông Nam Nguyễn, Kim Nguyễn và An Nguyễn sau khi lập nghiệp phát đạt dựng lên công ty Nexus Technologies đã tin theo lời kêu gọi của Nghị quyết 36 để liều lĩnh lao vào những thương vụ béo bở mang tính mạo hiểm quá cao này. Nay kết quả ra sao? Ba anh em họ Nguyễn đã bị truy tố. Công ty Nexus Technologies đã đóng cửa. Tiền bạc tài sản đã bị niêm phong. Công ty phải chuẩn bị nộp phạt 27 triệu đôla. Cả công ty và gia đình 3 anh em lo buồn, chới với, kinh hoàng, tỉnh ra là đã muộn, hối không kịp, không cái dại nào giống cái dại nào. Kinh hoàng nhất là khi các chuyên gia luật đối chiếu Luật FCPA với tội trạng nhận định rằng ông Nam Nguyễn (54 tuổi) và ông An Nguyễn (34 tuổi) có thể bị tuyên án mỗi người 35 năm tù giam, còn ông Kim Nguyên (41 tuổi) có thể bị 30 năm tù giam. Thế là mất hết! Để xem chính quyền Hà Nội sẽ có thái độ ra sao. Rất nhiều khả năng là họ sẽ bỏ mặc 3 nạn nhân trong tai hoạ kinh khủng này, với cảnh sạt nghiệp và 105 năm tù lơ lửng trên đầu 3 Việt kiều “yêu nước” đã trót dại bùi tai khi nghe Nghị quyết 36 tán tỉnh ngọt ngào như mật. Âu cũng là một bài học rất sắc để đời cho bà con ta ở hải ngoại. Cảnh giác bao nhiêu cũng chưa đủ đối với chính quyền độc quyền đảng trị trong cơn khủng hoảng toàn diện triền miên hiện nay. Khi thì họ gọi bà con ta là “khúc ruột thân thương”, khi thì chỉ là “khúc ruột thừa vô dụng”, cắt bỏ không chút thương tiếc! Đáng tội tin cọng sản.
|
|
|
Post by AVT on Mar 13, 2019 15:24:18 GMT -6
Hãy đi xa để biết ...
Đến châu Âu mới biết đi shopping không sợ hàng giả Đến Bắc Âu mới biết mặt trời cũng thích ngủ nướng Đến Hong Kong mới biết minh tinh nào cũng đeo khẩu trang Đến Hà Lan mới biết mực nước biển cao hơn mặt đất Đến Thái Lan mới biết thì ra con cú cũng có gai Đến Pháp quốc mới biết trêu hoa ghẹo nguyệt cũng cực kỳ có phong cách Đến Nga mới biết Vodka chỉ là một loại nước giải khát Đến Hawaii mới biết phụ nữ không cần phải mua áo ngực Đến Hàn Quốc mới biết phụ nữ đẹp không phải do bẩm sinh Đến Brazil mới biết mặc đồ thiếu vải cũng chẳng có gì phải thẹn thùng Đến Anh quốc mới biết kết cục hạnh phúc mãi mãi về sau trong truyện cổ tích đều là hư cấu Đến Nhật Bản mới biết ngay cả tội phạm cũng vô cùng lịch sự lễ độ Đến Mexico mới biết có thể đi Mỹ bằng đường hầm Đến Canada mới biết diện tích lãnh thổ lớn hơn Trung Quốc nhưng dân số còn kém Bắc Kinh Đến Trung Quốc mới biết mười người hết chín người lừa đảo, người còn lại đang luyện tập ngày đêm Đến Mỹ mới biết bất kể là ai, bạn đều có thể kiện họ ra toà Đến Úc mới biết chuột túi và các loại động vật khác nhiều như quân Nguyên Mông, dễ khiến con người phát điên Đến Thuỵ Sĩ mới biết mở tài khoản ngân hàng, nếu có ít hơn 1 triệu USD sẽ bị cười thúi mũi Đến Ý mới biết hàng Gucci & Prada còn ít hơn ở Trung Quốc Đến Áo mới biết người ăn xin nào cũng có thể đàn ít nhất một bản nhạc Đến Vatican mới biết dù đứng ở bất kỳ vị trí nào trong nước cũng có thể bắn chết chim ở tận nước Ý. Còn đến VIỆT NAM thì mới biết giữa nói và làm cách nhau chỉ có một t... một v... thôi ! Đến VIỆT NAM mới biết....yêu quê hương là PHẢN ĐỘNG.
|
|
|
Post by NetTin on Mar 25, 2019 10:56:00 GMT -6
Tai nạn giao thông VN: 'Đi đứng kiểu gì cũng chết' Tác giả: Nguyễn Lễ
Quê tôi là một vùng trồng lúa thanh bình ở Miền Tây. Chỉ trong vòng trên dưới 5 km trong khoảng cách ba ngày (từ mùng hai đến mùng bốn) trên đường đi chúc Tết tôi đã chứng kiến hai đám ma mà hỏi ra đều do tai nạn giao thông. Một nạn nhân chỉ mới 19 tuổi trên đường ra thị trấn uống cà phê với bạn thì bị xe máy đi ngược chiều tông chết. Nạn nhân kia đã lớn tuổi tử vong ngay trước cửa nhà mình sau vì bị xe tông khi đang băng qua đường mua thuốc lá. Trên đường từ thành phố về quê bánh xe của tôi lăn qua không biết bao nhiêu là chỗ quằn quện người ta dùng sơn ghi lại hiện trường vụ tai nạn.
Nào là vệt bánh xe, vệt nạn nhân nằm, rồi không biết vệt gì mà vẽ dài từ chỗ này sang chỗ khác; rồi có chỗ còn vết máu thâm đen người ta lấy vôi rắc lên để đánh dấu một vụ tai nạn còn mới; có chỗ vệt sơn cũ chưa phai đã có vệt sơn mới chồng lên. Cứ chạy một lát là thấy vệt sơn ngoằn ngoèo như thế thử hỏi sao không ớn lạnh? Mấy ngày Tết, đi chúc Tết ai mà không uống? Ít cũng vài lon còn nhiều là quắc cần câu. Uống xong thì ai cũng phải về, mà ai cũng đi phương tiện cá nhân thì ai cũng phải tự lái xe về. Vậy thì bất chấp say xỉn đến mức nào anh vẫn phải chạy xe ra đường. Mà đi chúc Tết mấy ai đi một mình mà nhiều người còn chở vợ con theo nữa. Đến đây chúng ta mới thấy bức tranh giao thông ngày Tết ở Việt Nam nguy hiểm đến mức nào. Biết bao nhiêu người đùa giỡn với số phận và đặt sinh mạng mình trước lưỡi hái tử thần.
Không cấm được tình trạng say xỉn? Đến hết mùng 6 Tết năm nay, tức ngày cuối cùng trong kỳ nghỉ Tết, thống kê của Bộ Công an được báo chí trong nước dẫn lại cho biết đã có 183 người chết trong 280 vụ tai nạn giao thông. Đó là chưa kể 245 người khác bị thương. Nếu tính bình quân trong 9 ngày nghỉ Tết Kỷ Hợi thì mỗi ngày có trên 20 người bỏ mạng trên các con đường ở Việt Nam. Ngay cả thương vong mỗi ngày ở những vùng có chiến sự như Afghanistan hay Syria cũng không đến mức đó. Đó là chưa kể những nạn nhân bị mất khả năng lao động hay tàn phế cả đời. Thành ra mấy ngày Tết ở Việt Nam, tôi chạy xe mà tâm trạng căng như sợi dây đàn. Người biết chuyện thì khuyên tôi mấy ngày Tết không nên ra đường vào giờ chiều vì giờ đấy đầy những người đi chúc Tết về người nồng nặc mùi rượu chạy lạng quạng.
Cẩn thận là vậy nhưng tôi vẫn không thể lường hết được những kẻ băng ngang bổ ngửa. Có những lúc đang chạy ngon trớn bỗng có người muốn xẹt là xẹt, không xi nhan, không xin đường khiến người chạy sau chới với. Có lần vào lúc nhá nhem tối từ trong đường ruộng bỗng xẹt ra một chiếc xe máy không đèn đóm phóng cái ào ra quốc lộ mà trên xe là một anh chàng cởi trần không đội nón bảo hiểm. Bữa đó tôi mà chạy nhanh chút thì giờ này có lẽ không còn ở đây mà viết những dòng này. Mất mát ngay ở những người xung quanh
Để thấy mức độ phủ sóng của tai nạn giao thông ở Việt Nam hãy thử hỏi trong chúng ta có bao nhiêu người có người thân, người quen hoặc người mình biết đã từng bị tai nạn? Có người đồng nghiệp mất một lúc nhiều người thân vì xe lật đèo.
Có anh hàng xóm chỉ một lần bị té xe mà phải nằm như khúc gỗ một chỗ suốt mấy chục năm trời để cha mẹ hàng ngày chăm sóc. Có một bác bạn ba tôi mới hôm trước còn nói chuyện mà hôm sau chỉ vì uống say không làm chủ tay lái mà bị tông xe đến nỗi phải lấy ra hộp sọ. Cho nên mỗi lần nghe nói tai nạn giao thông là tôi lại rùng mình. Không chỉ làm chết người mà hậu họa để lại vô cùng lớn: làm tan nát cả gia đình, tước mất tương lai của trẻ thơ và để lại nỗi đau dai dẳng, nhức nhối không bao giờ thôi cho người ở lại. Nói đâu xa, chỉ trong vòng một tháng đầu năm nay cả nước đã liên tục chấn động với các vụ tai nạn thảm khốc.
Ở Long An, xe container cày thẳng vào đám đông dừng đèn đỏ phía trước làm bốn người chết và hàng chục người khác bị thương. Tại Hải Dương, đoàn người đi bộ trên quốc lộ sau khi viếng nghĩa trang liệt sỹ bị xe tải nhào tới đâm tới tấp làm tám người tử vong. Tới Bình Dương, ba đứa trẻ thơ ở tuổi cần cha cần mẹ nhất bỗng dưng mồ côi sau khi cha mẹ các em bỏ mạng dưới bánh xe container trên đường đi sắm Tết. Và cho đến giờ, tôi vẫn không thể nào quên vụ đoàn xe rước dâu gặp nạn ở Quảng Nam hồi giữa năm ngoái làm chết gần như cả nhà, cả dòng họ với 13 mạng người. Nỗi đau thấu trời xanh!
Rõ ràng ở nước ta hiện nay, không chỉ phóng nhanh vượt ẩu mới chết, mà đứng chờ đèn đỏ cũng chết, đi bộ dưới đường cũng chết, chạy đàng hoàng bị thằng chạy ẩu nó tông cho cũng chết, thậm chí ở trong nhà cũng bị xe container càn tới cũng chết. Kiểu gì cũng chết!
Tai nạn giao thông chính là một trong những lý do quan trọng làm giảm chất lượng cuộc sống ở Việt Nam, khiến nhiều người Việt ở nước ngoài ngần ngại không dám về quê ăn Tết, khiến nhiều người, trong đó có tôi, luôn trong cảm giác hồi hộp, bất an mỗi khi mình hay người thân mình phải đi ra đường. Tai nạn như cơm bữa có nghĩa bất cứ ai trong chúng ta và những người thân yêu của chúng ta đều có thể trở thành nạn nhân bất cứ lúc nào - sống nay chết mai. Vấn nạn này nghiêm trọng đến nỗi nó trở thành một vấn đề quốc gia và thu hút sự quan tâm ở cấp cao nhất với Ủy ban An toàn giao thông quốc gia hiện do phó Thủ tướng thường trực đứng đầu. Nhưng mà tại sao năm này đến năm khác càng ngày chúng ta càng nghe thấy nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng? Dân quen bừa bãi?
Có khi nào do số lượng người và phương tiện ngày càng đông? Nói như vậy khác nào mặc định tai nạn là tất yếu. Tuy nhiên, cần nhớ là đường sá giờ đây so với mấy chục năm trước đã tốt hơn nhiều: đường rộng hơn, có đường mới, có đường tránh thị tứ đông đúc, có đường cao tốc không cho xe thô sơ đi chung, có cầu vượt để người đi bộ tránh dòng xe phía dưới, còn dải phân cách, đèn hiệu, biển báo giao thông thì đầy đủ hơn… Bản thân tôi hôm mùng 8 Tết cũng chứng kiến rất nhiều người vác mía chiều dài mấy lần chiếc xe máy của họ nghênh ngang trên đường; có khi đang chạy thì bị bụi từ những xe chở cát không che chắn bay mù mịt vào mắt làm phải dừng xe đột ngột giữa đường.
Có lần tôi chứng kiến có người dừng xe ba gác giữa cầu để bán hàng, còn ngay dưới chân cầu có người thản nhiên băng qua ngay trước mũi những xe đang bon bon chạy xuống. Ở những chỗ đèn giao thông đếm giây, chưa hết thời gian đã có người bóp còi thúc đít inh ỏi. Vấn đề là ở Việt Nam những hành động nguy hiểm đó ít nhiều được cảm thấy là bình thường. Đơn cử như việc chợ búa họp sát lòng đường: bao nhiêu người trong chúng ta thích tạt vào mua con cá, mớ rau thay vì chạy vào chợ?
Hay lề đường trở thành nơi để xe (thậm chí cho cơ quan Nhà nước), nơi bày hàng hóa, bày hàng quán thì ít nhất những ai lấn chiếm và những người sử dụng (đậu xe, gửi xe hay ăn hàng) có cho là sai trái hay không? Bản thân tôi đã chứng kiến nhiều quán nhậu bày bàn ghế ra chiếm hết vỉa hè hay nguyên một con 'đường sủi cảo' Hà Tôn Quyền bị chiếm trọn để xe và để bàn cho khách ngồi. Ra đường 'kiếm chác' Làm sao mà ai đó có thể chiếm trọn vỉa hè hay một con đường nếu không được công an hay chính quyền sở tại bật đèn xanh? Trong một xã hội 'ăn không từ cái gì của dân' thì ắt phải có chung chi. Vậy là, người dân làm càn đã đành mà lực lượng thực thi pháp luật cũng góp phần thúc đẩy cho những hành vi càn quấy đó. Nếu một tay lái quờ quạng vẫn được cấp bằng, một chiếc xe lỗi kỹ thuật vẫn được đăng kiểm tốt, một lỗi vi phạm giao thông vẫn được nhắm mắt cho qua thì hậu quả sẽ có bao nhiêu chết chóc, thương vong? Đồng tiền mà anh ăn được là thấm bằng máu và nước mắt của người dân vô tội.
Ít có nước nào mà cảnh sát giao thông bị khinh như ở Việt Nam. Cũng cần thông cảm là họ không thể sống với đồng lương chết đói, và cần thấy rằng họ tha hóa đến mức như vậy ngoài thể chế tham nhũng từ trên xuống dưới cũng có một phần lỗi của người dân. Tâm lý chung khi bị thổi phạt thì ai cũng chủ động tìm cách chung chi cho xong thay vì chấp nhận nộp phạt hoặc bị tịch thu phương tiện, bằng lái rất phiền phức.
Riết rồi thành quen. Cảnh sát giao thông thay vì đường đường chính chính, thiết diện vô tư, giữ nghiêm kỷ cương để được dân nể, dân sợ đằng này hễ thấy đưa tiền thì ham - riết thành ra ra đường vì hám hơi tiền. Dân họ cho ăn xong rồi họ gọi chó này chó nọ hoặc nói những lời rất khó nghe như 'Tết đói quá nên tụi nó ra đường kiếm chác'. Vì các lý do trên, việc giữ chuẩn mực trong giao thông ở Việt Nam rất thấp từ tất cả mọi phía. Tính thiếu kỷ luật, du di, tùy tiện, xuề xòa, dễ dãi đâu đâu cũng có vì nó ăn sâu vào văn hóa nông nghiệp của người Việt. Ý thức thấp còn có thể nâng cao, nhưng nếu nó quyện chặt vào tâm tính, tình cảm, tập quán của người dân thì khó lòng mà thay đổi được. Chính vì dễ dãi, xuề xòa như thế mà nhiều người vẫn chấp nhận hoặc chí ít là thông cảm việc uống rượu bia lái xe. Khó nhưng không phải là hết cách. Việt Nam đã từng làm được những việc khó như cấm đốt pháo hay bắt buộc đội mũ bảo hiểm.
Cần quyết tâm rất lớn của toàn hệ thống chính trị. Lúc đầu sẽ rất vất vả vì đâu đâu cũng có vi phạm nhưng qua giai đoạn đầu mọi việc sẽ vào guồng. Chưa kể, khi thấy ai ai cũng chấp hành thì những người cứng đầu nhất cũng phải làm theo. Ngoài ra, nếu lực lượng cảnh sát giao thông trở lại đúng vai trò của mình là đảm bảo an toàn giao thông chứ không phải rình mò kiếm chác, thì tôi nghĩ đại đa số người dân sẵn sàng chấp nhận bỏ tiền thuế ra trả lương cho cảnh sát giao thông xứng đáng hơn để họ làm việc đàng hoàng.
Một ví dụ về làm quyết liệt là truy tố những quán nhậu đã bán rượu bia cho khách hàng lái xe gây tai nạn. Mặc dù người mua rượu bia phải hoàn toàn có trách nhiệm với quyết định của mình, nhưng người bán nếu biết khách hàng lái xe nhưng vẫn nhắm mắt làm ngơ vì đồng lời thì phải chịu liên đới. Sẽ có người giãy nảy. Làm vậy khác nào đóng cửa hết quán nhậu? Nhưng đó mới là làm quyết liệt. Nếu chúng ta phản đối thì có nghĩa là chúng ta vẫn còn dễ dãi, du di. Như thế chúng ta phải vẫn sống chung với lũ dài dài. Bài thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của người viết.
|
|
|
Post by NetTin on Mar 25, 2019 10:59:41 GMT -6
Việt Kiều làm việc từ thiện ở VN
Tác giả: Guardasigilli, jr
Những chuyện tương tự như vầy đã xảy ra lâu lắm rồi, mãi đến bây giờ mới được đưa lên báo? Lần đến Việt Nam với Cha Má, Jr. và Wifey có theo Cha Má đến một trung tâm tình thương ở Đồng Đế, Nha Trang để tặng chút quà và tiền cho các trẻ em mồ côi, người già cả bị bỏ rơi không ai chăm sóc và người lớn tuổi tật nguyền. Những việc xảy ra mà Jr. chỉ thấy ở Việt Nam: Khi làm quà để mang đến phát cho từng người, Jr. có phụ Má packed nên nhớ rõ: 1 phần cho người lớn gồm có 1 cái khăn lau mặt, 1 cái khăn tắm, 2 cục xà bông tắm loại tiệt trùng, 2 chai dầu gội đầu, 2 lon condensed milk, 2 hộp bánh ngọt, 1 ký đường, 20 gói mỳ ăn liền, 1 bịch xà bông giặt áo quần. Còn cho các em thì có thêm 10 cuốn vở, school supplies như viết, thước, hộp đựng viết, và 3 cuốn sách truyện tranh (TinTin, Lucky Luke, v.v.) Khi packed quà vô bịch nylon thì Má có danh sách là 224 người cả thảy. Má cẩn thận mua đủ để packed luôn 250 phần, dư ra cho bảo đảm nếu mà họ đếm thiếu người. Sáng hôm sau khi Jr.và Cha loaded quà lên xe thì đếm đủ là 250 phần.
Khi đến nơi, có ông tài xế và mấy người làm trong trung tâm đó phụ unloaded. Khi unloaded xong thì tập họp mọi người (đi từng khu một) để phát. Lúc phát tới khu cuối cùng mới biết ra là chỉ còn có 238 phần (12 phần bị ăn cắp mất lúc nào, chỗ nào, ai ăn cắp mình không biết!) Cũng may là họ đưa danh sách chỉ đếm thiếu hai cụ nên vẫn còn đủ để tặng cho mỗi người một phần. Chỗ dư ra thì Má tặng cho mấy bà nấu ăn và mấy cô phụ việc ở đó. Tặng quà xong, Cha Má phát cho mỗi người lớn $100,000 tiền Việt Nam (~ 7, 8 dollars) để tiêu vặt. Mấy em nhỏ thì được $50,000. Sau đó, cả nhà đi tham quan hết các phòng ốc thì thấy quá sức bẩn thỉu và mất vệ sinh vì những người già họ không dọn dẹp được. Có người bị bệnh nằm tè ị luôn ngay tại chỗ, lâu ngày nhiều tháng nên sàn nhà dơ dáy, có nhiều phòng còn đọng vũng nước tiểu nhèm nhẹp dưới đất, ruồi bay tùm lum trong phòng rất khủng khiếp trong cái nóng ẩm giữa mùa hè ở xứ nhiệt đới. Mền, gối, chiếu, mùng của các cụ già này thì cũ, rách, hôi thúi và dơ khủng khiếp vì đãquá lâu ngày không được giặt.
Kinh khủng đến nỗi mà vô cái phòng đầu tiên là Wifey ói lên ói xuống gần chết. Vậy là Cha Má về lại nhà huy động bạn bè và kêu gọi con em họ góp tay "làm từ thiện" với chương trình là sẽ trở lại trung tâm này để dọn dẹp, lau chùi phòng ốc, giặt giũ mền mùng, thay chiếu và gối mới cho các cụ. Nhất là cần người tắm rửa, gội đầu cho những cụ quá già không tự mình tắm gội được đã lâu, có nhiều cụ tóc dính lại một chùm và mình mẩy vừa dơ vừa hôi phát sợ! Cha Má ngồi ôm phone gọi khắp nơi, gọi tùm lum cả một ngày nhưng không có một người nào hưởng ứng lời kêu gọi của Cha Má. Ai cũng làm "ông này bà nọ" và ở Việt Nam hễ là "ông này bà nọ" thì không có làm mấy cái chuyện của tôi tớ hạ tiện này. Họ cũng không cho phép con cái họ tham gia làm những chuyện xã hội như thế này vì theo họ là "tào lao" và sợ lây bệnh! Cuối cùng mất 3 ngày Cha Má mới mướn được một nhóm sinh viên từ Đại Học Hải Sản Nha Trang và họ đòi tiền công là $200,000/ngày mới chịu làm. (Lúc đó nghe đâu lương kỹ sư xây dựng chỉ 2-3 triệu/tháng) Rất mắc cười vì nghe mấy cô sinh viên xinh đẹp đòi tiền công là Cha cười phì rồi OK liền. Sau ngày làm việc rất mệt và vui đó, Cha không trả $200,000 mà trả luôn $50 dollars cho một người và còn khao họ bữa ăn tối ngoài biển rất vui. Ngày trở lại cái trung tâm này thì không có announced trước nên mấy người quản lý họ khá là bất ngờ khi thấy Cha Má và ba chiếc xe van chạy vô sân chất đầy nghẹt cả đống mền, mùng, chiếu, gối mới cộng với mấy thùng thuốc lau nhà tẩy trùng... theo đuôi là một đoàn người làm chuyện dọn dẹp. Bà quản lý có lẽ vì nể mặt Cha Má nên không đuổi ra, và bà cho phép cả đoàn cứ thoải mái dọn dẹp, nếu cần thì bà sẽ kêu thêm người phụ giúp, hướng dẫn. Bữa đó cả nhà làm janitor rất mệt nhưng rất vui. (Tội cho Wifey không biết tiếng Việt mà mấy người sinh viên lại quá dở tiếng Anh nên phải team với Jr. là cánh đàn ông làm toàn việc nặng!) Đến cuối ngày hoàn thành mọi việc xong, mọi người rất hài lòng và vui.
Nhưng chỉ 5 phút sau thì hết vui và giận vô cùng khi Cha Má được các cụ già và các em cho biết là tiền tặng hôm trước thì hôm sau bị mấy người quản lý đè cổ móc túi tịch thu hết. Coi lại thì phần quà tặng của mỗi người cũng bị tịch thu mất một nửa! Chút quà tình thương cho người già cùng khổ và trẻ em mồ côi chẳng bao nhiêu mà nỡ lòng ra tay ăn cắp, chỉ vài đồng bạc tặng cho họ cũng ăn cướp. Thật không thể nào tưởng tượng được. Về lại hotel, mấy hôm sau Cha Má vẫn còn bực lắm nên khi đi ăn có nói với mấy người bạn. Họ đều cười, "Việt Nam là vậy đó. Chuyện thường ngày ở huyện!" Và còn bị họ mắng xối xả vô mặt là tiến sĩ, Việt Kiều, kỹ sư mà ngu như bò tót nên mới đi lau nước đái, dọn cứt, chùi cầu tiêu, giặt giũ, tắm rửa cho mấy cái người đó! Chắc phải là Việt kiều dỏm (may là chưa được ưu ái nựng nịu đeo cho cái mác "Việt Kiều ăn cắp eo phe"! LOL!) Đâu là lòng nhân ái, là tương thân tương trợ, là "lá lành đùm lá rách", là chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam hôm nay? Nhớ lại và nghĩ lại vẫn còn ngao ngán và kinh sợ! (Chỉnh sửa lần cuối bởi guardasigilli, jr. vào 13-08-2011 lúc 07:32 PM Lý do: typos). Kính thưa Khách Viếng Thăm, Không phải là Cha Má không nghĩ và không biết tìm bà quản lý để mà chất vấn. Có một vấn đề khác đau lòng hơn để Cha Má không thể làm điều đó. Vì Cha, Jr., Wifey và hai anh sinh viên phải dựng hết các giường lên để chà rửa sàn nhà và xịt thuốc tẩy trùng lên mấy cái nẹp giường nên phòng phải hoàn toàn clear, tức là mọi người phải ra khỏi phòng trong thời gian mình dọn dẹp. Khi dọn dẹp sạch sẽ và các cô vào set-up giường, mùng, chiếu, gối đâu ra đó cả rồi thì mới cho các cụ vô lại phòng. Và "phe ta" thì ra giếng rửa tay rửa mặt sạch sẽ xong xuôi, wrapping things up là vô lại từng phòng để chào chia tay các cụ. Lúc này các cụ mới có dịp hỏi han mình nọ kia phải nói là rất thân mật và chân tình. Lạ lùng là lúc đó mình tới phòng nào là ngoài cửa đi qua đi lại có mấy người trong ban quản lý. Họ lảng vảng giống như là đi theo rình. Hễ thấy bóng mấy người đó thì mấy cụ im hết.
Nhưng Cha Má cũng được các cụ và các em cho biết cái gì xảy ra, nói xong là dặn tới lui mấy lần là Cha Má đừng có nói gì với mấy người quản lý, vì nói là các cụ và các em sẽ bị đánh đập! Họ cũng cho biết thêm là trường hợp của Cha Má là lần đầu tiên. Trước đây, những người hảo tâm đến tặng quà cáp hay tiền bạc xong là họ đi mất, không quay trở lại. Vì vậy mà những món quà hay những đồng tiền các cụ và các em nhận xong đều bị tướt đoạt ngay ngày hôm đó, hôm sau, hay một khi mà những người hảo tâm này bước ra khỏi cổng. Họ không biết cái gì đã xảy ra với những món quà tặng! Má kể là khi tắm rửa cho vài cụ Má cũng thấy vết đòn bầm còn trên thân thể. Má hỏi và khi nghe sự thật (giằng co không chịu đưa tiền nên bị đánh) Má đã đau lòng đến mức vừa tắm cho các cụ mà vừa khóc. Sao lại có những con người độc ác, sao họ có thể đối với nhau tàn nhẫn như vậy, nhất là đối với người già và trẻ em? Bổn cũ soạn lại. Hai ngày sau, Cha Má, Jr. và Wifey lại đến tặng quà và tiền cho một trung tâm người mù ở gần một cái chợ. Nói "trung tâm" là quá đáng. Cha nói, chỗ này ngày xưa là một cái chùa nhỏ (chừng 2,500 sq-ft tổng cộng diện tích mặt bằng) không có sân vườn gì cả. Sau tháng tư, 1975, Việt Cộng đuổi hết các nhà sư đi kinh tế mới và tịch thu làm thành cơ quan nhà nước. Bây giờ thì thành "trung tâm người mù". Lúc đó, họ cho Má biết ở trung tâm này có 128 người mù. Đa số là các phụ nữ già yếu (trên 65 tuổi) và hầu hết là họ sống ở chỗ khác, ngày ngày đến đó để làm chổi quét nhà. Một cái chổi họ được trả công là $1,000 tiền Việt Nam (lúc đó 1 tô phở, Jr. còn nhớ, là $5,000, gạo là $5,800/kg. Nhớ giá vì tối tối hay dắt cả đám nhóc đi ăn phở gõ và được Má sai đi mua cả tấn gạo cho chùa). Mỗi ngày một cụ có thể làm được 3-4 cái chổi, tức là $3,000-$4,000 (20 - 30 cents). Điều kiện làm việc phải nói là man rợ. Vật liệu làm chổi chà (hay chổi đót?) Nó như vầy: Cái chánh điện chùa chất hàng đống cọng đọt ("đọt" là đúng từ không?), bụi mù mịt và các cụ phải ngồi bệt dưới đất, vừa hít bụi và phải mò mẩm tết từng cọng chổi lại với nhau, rồi dùng dây kẽm quấn lại. Có vài cụ bị cắt tay máu chảy tùm lum mà vì mù nên không biết, vẫn cứ làm việc chăm chỉ rất tội. Cũng như lần đi trung tâm tình thương, Má làm 150 phần quà mang đến cho con số 128 người. Đến nơi thì chỉ có 67 người. Lý do là vì mấy cụ kia ở xa chưa biết tin để đến nhận (dù Cha Má đã hẹn 3, 4 ngày trước).
Không lẽ đã mang cả đống quà đến nơi rồi lại vác về hotel? Sau khi phát quà và tiền xong, trước mặt tất cả mọi người, Cha Má nói xin gởi quà và tiền lại đó cho ông quản lý, và nhờ ông ta chuyển lại cho những cụ già nào không có mặt hôm đó để nhận sau. Chia tay ra về mà cả Cha lẫn Má không nghĩ là mình "giao trứng cho ác." (Cha luôn là một "eternal optimist", luôn tin rằng bản chất con người là tốt, cái Thiện luôn thắng cái Ác, sự tử tế luôn cảm hóa được con người. Bởi vậy khi ở Việt Nam Jr. cứ nghe mấy người bạn của Cha mắng Cha mấy câu này hoài: "Đồ điên!", "Già đầu mà khờ câm!" và "Giao trứng cho ác!"). Sáng hôm sau, Jr. đưa Má và Wifey đi chợ. Mua vài bó hoa cắm trong phòng và vài món trái cây xong hãy còn sớm nên Má đòi ghé lại vô trung tâm người mù để thăm các cụ, và vì Má cũng muốn học xem coi cách làm chổi từ đầu đến cuối nó ra làm sao. (Má rất thích mấy cái món arts and craft này). Lạy Chúa! Vô đến nơi thì cái đống quà hôm qua biến đâu mất tiêu. Hai lão quản lý cũng đi đâu mất! Hóa ra hai lão đang ở trên gác - chẳng khác gì Thượng Đế Dép Râu - vừa uống rượu vừa nằm phưỡn ra cho hai ông mù khác làm massage! (Lúc đó chỉ mới 9 giờ sáng!) Má giận đến nỗi ngọng luôn không nói được một câu nào, lôi hai vợ chồng Jr. đi về ngay tại chỗ. Về tới hotel Má kể lại với Cha. Vậy là Cha lôi cổ Jr. chạy lại trung tâm đó để học bài học "tình đời". Cha hỏi mấy người hàng xóm quanh cái chùa thì được biết ra là ngay sau khi Cha Má và Jr. đi về thì hai lão kêu mấy bà chủ sạp hàng trong chợ tới bán đổ bán tháo cái đống quà sạch sẽ. Cũng như cái trung tâm tình thương, số tiền $100,000 đồng Việt Nam cho mỗi cụ già mù cũng bị móc túi "tịch thu" ngay sau đó. Một trăm ngàn là họ phải làm 100 cái chổi, là tiền lương còm cõi cho một tháng lao động cật lực! Đây là câu chuyện thứ hai (còn tới mười mấy chuyện như thế này nữa Jr. trải nghiệm khắp bốn vùng chiến thuật.) Ở Nha Trang thì còn cái lần đến trung tâm tình thương có tên là Hướng Dương của các "Ma-Sơ" quản lý và một cái chùa ở Cam Ranh cũng "equal opportunity" ê chề, chán ngán trước lòng tham và gian dối. Nhưng Jr. kể chỉ hai chuyện ở Nha Trang thôi là đủ giúp buồn ở đây rồi!) Có một điều quý giá Jr. học được từ những lần đến thăm viếng và làm từ thiện ở Việt Nam muốn chia xẻ, đó là giá trị của "human contact." Không thể diễn tả được sự xúc động khi ôm những con người bất hạnh này trong lòng và cảm nhận được những thân thể nhỏ bé kia rung lên.
Và sự khao khát một chút âu yếm, dịu dàng của họ là vô tận. Sự quan tâm, sự cảm thông, tình thương giữa người-và-người bày tỏ qua vòng tay ôm siết, cái nắm tay, choàng vai, hay những cái vuốt đầu, những cái hôn lên tóc, lên trán, lên má... tuy đơn giản và tầm thường nhưng là món quà quý hơn tất cả những gì mình có thể trao cho những người già cô đơn, những em nhỏ mồ côi thiếu thốn tình thương, chăm sóc này. Đừng chỉ tặng họ tiền bạc hay vật chất - không đủ - hãy trao tặng thêm cho họ một nghĩa cử của tình thương: some human contact. Sáu tuần ở Việt Nam là sáu tuần nặng nề, khó thở. Và buồn, buồn rã rượi. Không thể nào quên.
|
|
Tác giả: Phạm T. Duyên
Guest
|
Post by Tác giả: Phạm T. Duyên on May 20, 2019 12:28:55 GMT -6
CHUYẾN ĐI KINH HOÀNG
Cuộc đời chúng ta có những điều trôi qua, rồi tan biến như cơn gió thoảng. Tuy nhiên, có những điều mãi mãi in đậm trong ký ức, dù có muốn quên cũng không thể nào quên được. Đối với tôi, một trong những điều không thể nào quên và cũng là món nợ không bao giờ trả được, dù bây giờ tôi có tiền rừng, bạc biển chăng nữa! Câu chuyện xảy ra đã hơn ba mươi mốt năm. Hôm nay tôi xin ghi lại những phép lạ, mà tôi may mắn được chứng nghiệm trong chuyến đi bảy ngày đêm lênh đênh trên biển cả, với nhiều biến cố hãi hùng và kinh dị. Nếu như không có bàn tay nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật cứu vớt thì 137 người đã cùng chết trong lòng đại dương trên bước đường đi tìm "Tự Do". * Chuyến đi rất bất ngờ, do hai ân nhân là anh Nguyễn Vĩnh Tôn và anh ruột là Nguyễn Quốc Trụ, cựu Đại Úy thuộc binh chủng Nhảy Dù Quân Đội VNCH bảo trợ cho tôi mọi chi phí được trả từ Hoa Kỳ. Có lẽ vì đột ngột, nên tôi đã khóc suốt đêm và không thể nào ngủ được. Tâm trạng khác hẳn với những lần đi trước. Chưa ra đi mà trong lòng đã tràn dâng niềm thương nhớ những người thân yêu trong gia đình. Khoảng 3 giờ sáng, ngày 23-9-1984, tôi đến thắp nhang bàn thờ Phật. Nguyện cầu cho chuyến đi được bình an, may mắn, tai qua nạn khỏi, không bị tù đày, nhất là đừng gặp hải tặc. Có như thế tôi mới có thể giúp được gia đình thoát được cuộc sống bế tắc, khó khăn như hiện nay. Tôi cầu nguyện sức khoẻ, bình an, may mắn đến cho bố tôi đã già yếu, bệnh tật, cùng các anh chị em và một người tôi gọi là Cô đang sống đơn chiếc (đúng ra là Dì vì là em ruột của mẹ tôi). Cô đã đùm bọc, giúp đỡ gia đình chúng tôi rất nhiều kể từ khi Mẹ tôi bất ngờ ra đi vì quá đau khổ và lo sợ cho ngày mai đen tối của một gia đình mà hầu hết là quân nhân, công chức của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, sau biến cố 30-4-1975. Và trong chuyến đi này, tôi cũng có thêm một lời nguyện cầu:Tôi sẽ tái ngộ một “Thiên Thần” đang chờ đợi tôi với một tấm lòng trong sáng và cao quý. Lúc 3giờ 45 sáng, tôi đánh thức cô tôi dậy. Cô cũng vừa mới chợp mắt được một chút. Tôi cố giữ thật bình tĩnh chào từ giã cô để cho cô được yên tâm. Trong gia đình và bà con thân thuộc chỉ có cô lúc nào cũng bên cạnh tôi và là người duy nhất biết tôi sắp đi xa, mà chuyến đi này lành thì ít, nhưng dữ thì quá nhiều không thể nào lường được. Ngoài ra, cần phải giữ bí mật vì sơ xuất sẽ gặp những điều nguy hiểm có thể xảy ra. Đúng 4:00 giờ sáng, nhìn qua khe cửa sổ, tôi thấy đèn từ một chiếc Honda gắn máy chớp đi, chớp lại bốn lần trước cửa nhà. Đây là tín hiệu mà tôi đã được cho biết trước: Có người trong nhóm tổ chức sẽ đến đón tôi. Tôi lặng lẽ, nhẹ nhàng mở cửa. Tay ôm một túi xách nhỏ gồm: một ít lương khô, một bộ quần áo cũ, vài tấm ảnh gia đình, một quyển kinh loại bỏ túi “Bạch Y Thần Chú” do bác tôi cho. Bác căn dặn phải thường xuyên khấn niệm để cầu xin bình an; và một sợi dây chuyền có hình con chim Đại Bàng đang xoè cánh do một người bạn tặng tôi từ lâu. Tôi luôn mang theo trong người vì biết người ấy luôn luôn cầu nguyện cho tôi được may mắn. Đối với tôi, đó cũng là một biểu tượng "thần thoại." Tôi sẽ được chim Đại Bàng mang tôi đến vùng trời mơ ước.Tôi cũng bỏ theo một bình nước nhỏ, tuy rằng, người của tổ chức dặn đừng mang theo gì hết vì họ đã chuẩn bị tất cả đâu vào đó rồi. Ngồi sau lưng người lái Honda mà tôi hoàn toàn không hề quen biết, tôi hơi lo sợ. Ngoái cổ nhìn lại con hẻm nhỏ thân yêu của một xóm nghèo gần ngã ba Cao Thắng và Trần Quốc Toản, Sài gòn. Giờ này hầu như mọi người đang yên giấc. Tôi chào vĩnh biệt trong nước mắt căn nhà mà gia đình tôi nương náu gần mười năm qua. Nơi đây bố tôi đã đưa cả gia đình về sống, sau khi trả lại căn nhà do chính phủ VNCH cấp cho công chức chỉ trước biến cố 30/04/1975 vài tháng. Nếu còn tiếp tục ở lại căn nhà đó thì không biết gia đình tôi sẽ gặp khó khăn biết chừng nào, khi người ta đến tiếp thu và yêu cầu gia đình tôi phải ra khỏi trong vòng hai mươi bốn giờ. Tài xế Honda chở tôi ra bến xe miền Tây. Tại đây có một ngưòi đàn ông đội nón đen đã đứng chờ sẵn, ông ta trao vé xe đò đã mua từ trước để tôi lên xe đi Mỹ Tho. Khi đến Mỹ Tho, tôi được một người đàn ông khác hướng dẫn chuyển xe đi tiếp Bến Tre. Đến nơi, khoảng giữa trưa, tôi cùng mấy nguời đã tới trước cùng ngồi ăn với nhau. Tôi nghĩ họ là những người sẽ cùng đi chung chuyến vượt biên với tôi. Sau khi ăn trưa xong, tất cả được mời lên xe Lambretta ba bánh để chở ra bến đò gần đó. Tại đây, người ta chia chúng tôi ra từng nhóm xuống những chiếc ghe nhỏ chở đầy trái cây để ngụy trang mà dân vượt biên còn gọi là “Ghe Taxi, hay “Cá Nhỏ”, để tránh những trạm kiểm soát dọc bờ sông, hoặc đột xuất có thể chận lại khám xét bất thình lình. Ghe đi được một lúc thì nhóm tổ chức phát cho mỗi người một miếng giấy nhỏ, với mật mã do nhóm tổ chức ghi trên đó. Cho đến chiều thì ghe tấp vào một bụi rậm ven sông để chờ đợi. Khi bóng đêm vừa bao trùm xuống, ghe lại tiếp tục đi thêm một khoảng khá xa. Tại đây đã có một ghe lớn neo sẵn, còn gọi là “Cá Lớn.” Đây là ghe sẽ đưa chúng tôi ra đi trên biển cả. Lúc này đã có nhiều ghe nhỏ đang vây quanh và mọi người cùng một lúc đang tìm mọi cách để leo lên Cá Lớn, nên vô cùng hỗn loạn. Phụ nữ, trẻ em đứng trên vai những người đàn ông hay thân nhân để vịn vào thành ghe, sau đó nhảy lọt được vào cá lớn. Trước cảnh đó, tôi chỉ muốn bỏ cuộc, vì nghĩ rằng tôi không thể nào đủ sức để có thể tự nhảy lên bám được vào thành ghe, rồi sau đó leo vào bên trong. Thời học sinh, tôi luôn luôn đứng cuối lớp về môn Thể Dục, đặc biệt là hai môn leo dây và nhảy cao thì yếu nhất. Bây giờ, nếu đứng trên mặt đất bằng phẳng, tôi cũng không thể nào làm nỗi, huống chi là phải bám vào thành ghe đang tròng trành trên sông nước. Tôi lại nhỏ con, thể lực rất yếu đuối; nếu chẳng may không vào được con cá lớn mà bị rớt xuống sông trong cảnh hỗn loạn và bóng đêm dày đặc này, chắc chắn một trăm phần trăm là chết đuối, vì tôi không biết bơi và cũng chẳng có ai can đảm cứu tôi trong lúc này. Nhưng nếu bỏ cuộc, có nghĩa là sẽ ở tù, vì tôi không thể tìm cách trở về nhà được trong lúc này nữa. Tôi chỉ còn biết cầu xin Trời, Phật, Ông Bà khuất mặt hãy cứu vớt: “Con không thể đi tù thêm lần nữa! Con không thể nào chết. Con phải đi thoát được thì con mới có cơ hội giúp gia đình. Tất cả đang trông vào con. Gia đình con không có điều kiện tiền bạc để cho con vượt biên. Nay có quý nhơn giúp đỡ, con chỉ cần quyết tâm, chấp nhận gian nguy là đạt được. Trời Phật có thương con, phù hộ cho con thì con sẽ vượt qua.” Tôi đã có kinh nghiệm trong lần vượt biên ở Cần Giờ bị bắt vào năm 1981 và ở tù trong Chí Hoà, sau đó bị đưa đi lao động ở Sông Bé. Chỉ trong vài phút thôi, Cá Lớn sẽ nhổ neo. Không bao giờ tổ chức vượt biên đợi người lên đầy đủ mới ra đi. Tôi không thể do dự hay chần chờ gì nữa! Phải quyết định tức khắc. Tôi vừa khóc, vừa niệm Phật, vừa cố lấy hết sức nhắm vào thành Cá Lớn, tung hết sức bình sinh nhảy thật cao, thật chắc. Ôi! thật là may mắn! Tôi bám được vào thành ghe. Ôi! Tôi đã lọt thỏm vào Cá Lớn. Phải chăng có một sức mạnh vô hình nào đã nhấc bổng tôi lên, để tôi được vào khoang ghe, vì bình thường tôi không bao giờ có thể làm nỗi điều này. Chưa kịp đứng lên thì đã bị một số người nhảy tiếp sau đạp và đè lên khắp người. Tôi lại tiếp tục niệm Phật giúp tôi có đủ sức đứng dậy; nếu không tôi sẽ bị chết bẹp ở đây. May sao!tôi đứng dậy được và nép sát người vào thành ghe. Chưa kịp hoàn hồn, nghe tiếng hét to: “Không ai được lên nữa! Ghe đã quá trọng tải. Nếu còn tiếp tục nhảy lên, ghe sẽ bị lật và chìm, tất cả mọi người sẽ chết tại giòng sông này.” Ngay sau đó, người của tổ chức bật đèn pin sáng lên để bắt đầu kiểm tra mật mã. Một số người trình mất mã, nhưng họ cho là không đúng và ra lệnh quăng những người này xuống những chiếc “Ta Xi” vẫn còn đang bao quanh con"Cá Lớn"chờ đợi. Khi đến chỗ tôi đứng, tôi rất tự tin trao mảnh giấy ra cho họ xem. Vừa đọc xong, họ nói "Đây là mật mã của Ba Châu (tên người liên lạc dẫn tôi đi.) Chúng tôi không chấp nhận khách của Ba Châu. Vậy xin mời cô trở xuống ghe taxi đi về." Nghe đến đây, tôi tưởng chừng như tiếng sét đánh ngang tai, chân tay rụng rời. Làm sao lại xảy ra như vậy? Khách nào của Ba Châu cũng đều bị tai hoạ bất ngờ vì sự bất đồng và phản bội trong nội bộ tổ chức với nhau. Nghĩ lại, nếu không nhờ phép lạ thì làm sao tôi lọt được vào cá lớn, rồi sau đó đứng dậy an toàn được. Vậy mà bây giờ bị đuổi xuống và chắc chắn sẽ lại bị ở tù. Không thể được! Tôi bật khóc và năn nỉ "Tôi cũng là khách như những người khác, nhưng chẳng may là khách của Ba Châu. Gia đình tôi đã thoả thuận mọi điều kiện cho chuyến đi qua Ba Châu. Nay xin các bác, các anh cho tôi được tiếp tục đi. Gia đình tôi ở Mỹ sẽ đền ơn theo mọi điều kiện yêu cầu của quí vị." Khóc lóc, van nài, nhưng họ vẫn một mực dứt khoát từ chối. Hai người đàn ông được lệnh khiêng đầu và chân tôi quăng xuống ghe taxi. Tôi coi như chắc chắn vào tù. Trong lòng quá đau xót và coi như số tôi phải vào tù không thể nào tránh được. Bỗng nhiên, ánh sáng đèn pin vụt tắt. Hai người đang khiêng tôi bèn bỏ tôi xuống sàn ghe. Cá Lớn được lệnh phải xả hết tốc lực phóng ra biển. Có lẽ thời gian mua bãi đã hết, nếu chậm trễ toán công an biên phòng khác đến đổi phiên trực có thể giữ ghe lại? Tôi bàng hoàng mừng rỡ; chỉ trong tích tắc tôi đã thoát được cảnh ngục tù. Phải chăng cũng là một phép lạ do Ơn Trên đã cứu tôi? Chiếc ghe nhắm hướng ra biển lao như mũi tên bay trong bóng đêm dày đặc nghe rợn cả người. Chạy khoảng hơn bốn tiếng đồng hồ thì có những tiếng reo mừng:"Ghe đã ra được Hải Phận Quốc Tế. Chúng ta coi như sắp được tự do rồi.” Vừa nghe xong, tôi oà lên khóc nức nở, dù trong lòng cũng mừng. Vì từ giờ phút này tôi đã thật sự xa tất cả những người thân yêu. Không biết đến bao giờ mới có thể gặp lại, hoặc xa lìa vĩnh viễn; nếu như gặp nạn không tới được bến bờ. Lúc này nhóm tổ chức bắt đầu quay lại hạch sách những hành khách của Ba Châu đang có mặt trên ghe. Họ doạ nạt từng người. Ai có cà rá, đồng hồ hay bất kỳ vật nào có giá trị thì đưa cho họ ngay. Khi họ hỏi tôi có gì đưa cho họ, tôi trả lời không có gì hết, ngoài một ít hành lý tôi đang có trên người. Thật ra, tôi có giấu một chỉ vàng trong áo lót được cô tôi cho để phòng khi hữu sự. Tôi không thể nào nộp cho họ. Tôi năn nỉ với họ là khi nào được định cư, tôi hứa sẽ xin hoàn lại đầy đủ. Trời lại dần dần sáng. Một ngày mới bắt đầu trên đại dương bao la. Tất cả đều vui mừng và hy vọng vài ngày nữa sẽ đến được bất cứ trại tị nạn nào và sau đó được đi định cư ở một nước thứ ba; lúc đó coi như đổi đời. Khi mặt trời lên cao, nắng chói chang, có lẽ là giữa trưa, nhóm chủ ghe bắt đầu cho phân phối nước uống. Tiêu chuẩn cho mỗi người là hai muỗng canh, phát vào buổi sáng và vào buổi chiều. Điều này khiến mọi người trên ghe hoang mang. Vậy là sao? Lúc đi đã hứa lương thực, nước uống cung cấp đầy đủ. Bây giờ lại xảy ra tình huống kỳ quái này! Có chuyện gì đây? Lúc này, chủ ghe mới cho biết là anh tài công chánh mang theo các phương tiện đi biển đã bị kẹt lại, không hiểu vì lý do gì mà không lên Cá Lớn được? Nên chúng ta khó hy vọng sẽ đi đến được các trại tị nạn như đã dự tính, vì trên ghe không ai có kinh nghiệm đi biển. Tài công phụ chỉ có kinh nghiệm đi đường sông. Bây giờ chỉ còn trông mong vào số mệnh và ơn trên cứu giúp. Phải lênh đênh trên biển không biết bao nhiêu ngày. Cầu xin sóng yên, biển lặng và gặp tàu thuyền nào đi ngang qua xin được cứu vớt, như vài trường hợp các ghe đi trước may mắn đã gặp. Bây giờ, xin các bà con thông cảm về việc cần phải tiết kiệm nước tối đa để có thể cầm cự trong thời gian dài chưa biết đến khi nào. Khi nghe chủ ghe giải thích xong, mọi người trên ghe cùng nhìn nhau lo lắng. Riêng tôi chết lặng cả người. Bao nhiêu tin tức về chuyện vượt biên lởn vởn trong đầu óc tôi. Có những chuyến, nếu may mắn không có gì xảy ra thì chỉ vài ba ngày là đến được trại tị nạn. Có những chuyến lênh đênh cả tháng trời bị các cơn đói khát, bệnh tật hành hạ. Đôi khi phải ăn thịt lẫn nhau để được sống còn; và cũng có những chuyến bị hải tặc tấn công cướp bóc, hảm hiếp và những phụ nữ bị bắt đem theo chúng. Biết bao là những bi kịch thảm khốc về chuyện vượt biên mà các cơ quan truyền thông đã đăng tải. Tôi nghĩ số phận chíếc ghe của chúng tôi sẽ trôi giạt về đâu? Bến bờ vô định nào? Lương thực, nước uống, xăng nhớt sẽ cạn kiệt trong bao lâu nữa? Và cũng có thể làm mồi cho đại dương. Tôi có đạt được sự đổi đời như mơ ước, được sống và học hỏi ở các nước văn minh, dân chủ, tự do. Lúc đó tôi sẽ có điều kiện để giúp đỡ gia đình đang tin tưởng vào nơi tôi. Hoặc tôi tự trách mình đi tìm một cái chết ngu xuẩn, làm cho gia đình đau khổ hơn và mang tội bất hiếu với bố tôi. Trước mắt, tôi cứ niệm Phật, cầu nguyện cho được may mắn. Mà rõ ràng tôi đã thoát chết từ lúc nhảy vào được cá lớn, và chút xíu nữa đã bị chủ ghe ném xuống "taxi", nếu không có báo động bất ngờ xảy đến. Bóng đêm lại buông xuống, tôi mệt đừ và khát rát cả cổ họng. Phải chờ đến ngày mai mới được phát nước uống. Tôi nghĩ mình có đem theo bình một lít nước. Nếu mỗi ngày uống hai muỗng thì tôi có thể cầm cự được trên nửa tháng. Thế là tôi lấy ra hớp một hớp. Chưa kịp cất lại thì vợ chồng trẻ và cô em gái ngồi kế bên thấy tôi cầm bình nước thì van xin cho họ uống bằng giọng nói lễ phép và lịch sự. Tôi nghĩ cho ba người uống thì nhiều quá, nó sẽ ảnh hưởng đến số nước dự trữ của tôi và cũng là bùa hộ mạng trong lúc này. Nhưng thấy họ nói quá, nên động lòng trắc ẩn.Tôi trao bình nước cho họ và nói "xin mỗi người chỉ được một hớp thôi nhé!" Tuy nhiên, khi cầm được bình nước trên tay, sau khi hớp xong, họ ngang ngược không chịu trả lại, mà còn giở giọng côn đồ ra thách đố tôi muốn làm gì thì làm! Vô tình tôi đã tự đánh mất bùa hộ mệnh vì lòng thương không đúng người. Ngày thứ hai trôi giạt trên biển theo một hướng vô định. Cầu mong sẽ gặp đuợc tàu thuyền đi ngang qua giúp đỡ, hay phi cơ bay trên đầu để ra dấu kêu cứu. Nhưng chỉ có cả một không gian tĩnh mịch, im lặng của đại dương lạnh lùng và ghê sợ. Trên bầu trời không có bóng dáng một loài chim biển nào. Mọi người đoán là ghe đã đi lạc và cách rất xa đất liền. Tôi vừa đói, vừa khát, vừa nhức đầu, chóng mặt vì các mùi hôi thối của ói mửa, tiêu tiểu của trẻ con bắt đầu xông lên nồng nặc, vì chỉ có một chỗ đi vệ sinh nằm ở phía cuối ghe, trong khi người nằm, kẻ ngồi la liệt không còn chỗ để nhúc nhích. Sự khủng hoảng bắt đầu khi cô bé khoảng mười lăm tuổi, ngồi đối diện tôi bị ngất xỉu vì khát. Mẹ của cô khẩn khoản, van xin “Ai có nuớc làm ơn cho con tôi xin một hớp; một hớp nước có thể cứu sống được con tôi”. Không một ai lên tiếng! Có lẽ mọi người nhớ lại lời nhóm chủ tàu căn dặn và đe doạ “Không ai được tự động đi lại, phải tuyệt đối giữ gìn trật tự tối đa. Không được đòi hỏi bất cứ gì! Nếu ai không chấp hành và cãi lời sẽ bị ném ngay xuống biển.” Nhìn mặt cô bé nhợt nhạt vì khát, chỉ cần một muỗng nước là có thể đem lại sự sống cho cô ta. Không thể đành lòng nhìn cô bé đang bất động, dù kiệt lực, tôi cũng cố gắng bò lên cầu thang để gặp nhóm chủ tàu xin nước cho cô bé. Họ nhìn tôi bằng cặp mắt giận dữ. Tôi bình tĩnh nói với họ là tôi không xin cho tôi mà xin các ông hãy nhỏ lòng thương cho cô bé kia đang cần vài muỗng nước. Nếu không, cô ta sẽ chết vì khát! Quả thật, khi được vài muỗng nước thì cô bé lần hồi tỉnh lại. Gia đình cô rất vui mừng và tôi cũng vui theo. Ngày thứ ba, biển vẫn yên, sóng vẫn lặng. Đúng là Thái Bình Dương! Tuy nhiên, trong lòng mọi người đều bồn chồn, lo lắng. Sự đói khát đã bắt đầu hoành hành. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống, thì cô bé lại kiệt sức và bất tỉnh lần nữa. Gia đình cô bé không dám gặp chủ tàu xin nước vì sợ chủ tàu nóng giận thì sẽ bị phiền phức. Sự việc xảy ra trước mắt tôi, nên tôi cũng không thể làm ngơ. Và tôi cũng cố lết đi gặp chủ tàu xin cho cô bé vài muỗng nước. Sau khi được vài muỗng nước thì cô bắt đầu tỉnh lại dần như hôm qua. Ánh nắng càng lúc càng gay gắt. Tôi tưởng chừng như sắp ngất xỉu đến nơi giống như cô bé vừa rồi. May sao, có một cơn mưa trút xuống. Ôi! Tôi quá mừng như vừa được hồi sinh. Những giọt nước mưa như nước cam lồ của Phật Quan Thế Âm làm mát dịu cổ họng đang rát bỏng của tôi. Nhóm chủ tàu chạy đi lấy mấy tấm bạt Nylon để hứng nước mưa, xong đổ vào những thùng nhựa. Kết quả không ai có thể thể nào uống được vì những thùng chứa nước mưa trước đó dùng đựng nhớt, xăng dầu, làm cho nước mưa có mùi giống như nước cống rảnh, đen ngòm cho vào miệng bị nôn ra ngoài ngay. Nhờ cơn mưa bất chợt coi như một phép màu đã tiếp sức cho tôi sống còn. Sang đến ngày thứ tư lênh đênh trong vô định. Giấc mơ tìm tự do có dấu hiệu tốt đẹp hơn. Đã thấy những cánh chim biển bay trên bầu trời, thấy những vệt khói dài của vài chiếc phi cơ phản lực để lại. Bóng dáng những chiếc tàu nhấp nhô từ xa đang tiến lại gần hơn. Chủ ghe cho người đốt quần áo để phát tín hiệu xin tiếp cứu. Nhưng tất cả đều vô ích. Không một tàu nào đến gần để giúp đỡ. Có lẽ họ sợ lãnh trách nhiệm và gặp nhiều phiền toái? Thế rồi, thất vọng này, tiếp nối theo thất vọng khác. Những cơn đói khát dày vò cơ thể. Tôi bị khát rang cả cổ, nên không thể nào nuốt được bất cứ gì. Thức ăn mang theo tôi đều cho hết. Trong lúc này tôi chỉ cần một hớp nước. Nhưng nếu tôi xin chủ tàu, chắc chắn ông ta sẽ cho người quăng tôi xuống biển như lời ông ta đã hăm doạ. Trong lúc đó gia đình chủ tàu có nước, có dừa, có cam quýt tha hồ sung sướng không sợ đói khát. Vài người trên ghe có sáng kiến mưu sinh thoát hiểm. Họ lượm các vỏ dừa ném bừa bãi dưới ghe, đem tướt những lớp xơ để ngậm lấy chất đắng, chát và có độ ẩm để giữ cho cổ họng đỡ phần nào cháy bỏng vì khát. Nhờ vậy mà chúng tôi vẫn tiếp tục cầm cự, chưa bị gục ngã. Cô bé trước mặt tôi lại ngất xỉu lần thứ ba trong ba ngày liên tiếp. Tôi nhờ cơn mưa hôm qua được hồi sinh, nay nhờ ngậm thêm xơ vỏ dừa, nên cũng có thể bò lên cầu thang xin nước cho cô bé. Không may, ngày hôm nay nhóm chủ tàu cương quyết từ chối. Họ lấy cớ là muốn sự công bằng cho mọi người. Trong vòng 30 phút cô bé cứ lập đi, lập lại: “cho tôi nước, cho tôi xin nước, nước, nước."Tôi thấy tội nghiệp và đau lòng qua, cầu mong cho mưa xuống ngay bây giờ. Ôi! Tôi không tin vào mắt tôi. Cô bé nấc lên, đảo một vòng mắt và rồi nhắm nghiền lại và bất động. Ngưòi Mẹ hét lên “Cứu con tôi, con tôi chết rồi.” Tất cả mọi người đều sửng sốt. Nghe la, nhóm chủ tàu vội vàng chạy xuống đem theo nước đổ vào miệng cô bé. Nhưng vô ích! Cô bé đã bất động và không bao giờ cần xin nước nữa! Mẹ cô, anh em trong gia đình khóc nức nở. Mọi người, kể cả nhóm chủ tàu cũng đều xúc động. Có lẽ họ đang hối hận về sự sai lầm của họ, khi không cho cô nước như hai ngày vừa qua. Nhất là đã không giữ lời hứa lo cho khách lương thực đầy đủ trong mười ngày. Mới có ngày thứ năm, đã có người chết vì không được cung cấp nước. Với tình trạng con thuyền trôi vô định không biết đi về đâu? Dù biển yên, sóng lặng cũng sẽ chết dần, chết mòn, chứ đừng nghĩ chi đến sóng to, gió lớn. Lần đầu tiên, tôi thấy bóng tử thần đang chập chờn. Mọi người vừa xúc động, vừa lo sợ sẽ có thêm nhiều người kiệt sức, trước khi đến được “bến bờ Tự Do”. Nắng đã bắt đầu tắt, hoàng hôn đang dần xuống. Nhóm chủ tàu quyết định "thủy táng cô bé". Họ kêu gọi bất cứ ai tùy theo tôn giáo của mình cầu nguyện cho cô bé. Không có ai hết! Tôi không hề đi lễ chùa, không biết gì về nghi thức tụng niệm. Nhưng từ những năm sau 30/04/1975, tôi đã sống triền miên trong nước mắt, chỉ biết đêm ngày cầu nguyện Trời Phật cứu vớt cho gia đình đang tan nát vì cha và anh lâm nạn, trong khi Mẹ qua đời và các em còn quá nhỏ dại. Những năm gần đây, có những quý nhân giúp tôi vượt biên. Trong người tôi luôn luôn mang theo quyển kinh “Bạch Y Thần Chú” để cầu nguyện. Biết rằng đây không phải là kinh cầu siêu. Nhưng tôi cảm thấy có thể làm người mất đi được ấm áp, nên tôi tình nguyện đứng ra thắp nhang tụng niệm. Mẹ của cô bé cho tôi biết tên em là Tuyết Nhiên (tôi không còn nhớ họ). Sau khi thắp nhang do chủ tàu mang theo đưa cho. Tôi lăm răm tụng niệm. Sau đó, hai người đàn ông đến gần xác cô bé, người đỡ đầu, kẻ khiêng chân đẩy xác cô bé xuống biển, trong tiếng khóc nghẹn ngào của người Mẹ và anh em trong gia đình. Tôi cũng không cầm được nước mắt, thương tiếc cho cô bé hồn nhiên ngồi trước mặt tôi năm ngày qua. Hôm nay em đã đi vào lòng đại dương chỉ vì nhóm tổ chức đã tàn nhẫn bội ước. Tôi chợt rùng mình: "Nếu không có cơn mưa nhiệm mầu hôm qua, thì nguời đầu tiên bị Thủy Táng đã là tôi.” Vì có lẽ không ai dám gặp nhóm tổ chức để xin nước cho tôi được hồi sinh thêm vài ngày như Tuyết Nhiên. Sự xúc động vẫn chưa nguôi, thì nghe tiếng xôn xao "Máy ghe bị hư rồi, tự nhiên máy ghe bị tắt, không biết làm cách nào đễ cho ghe di chuyển.Vậy, bà con nào biết gì về sửa chữa máy móc làm ơn giúp để cho ghe có thể đi tiếp. "Một vài đàn ông, thanh niên đi tới chỗ đầu máy loay hoay sờ tới, sờ lui, nhưng chẳng mang lại kết quả gì! Chiếc ghe vẫn không thấy động đậy. Sau đó một hiện tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy trong đời đã diễn ra trước mắt tôi và mọi người: Tự nhiên, một số người đứng dậy nhốn nháo làm chiếc ghe tròng trành, nghiêng qua, nghiêng lại. Nhóm tổ chức hét lớn lên:“Xin bà con hãy ngồi yên, nếu còn tiếp tục ghe sẽ lật úp và mọi người sẽ chết hết.” Tôi kinh ngạc nhìn thấy vài người lần lượt sắc mặt trở thành đờ đẫn, mắt ngây dại và miệng thì thào: “Nước, cho tôi xin nước.” Đúng là ánh mắt và câu nói liên tục của Tuyết Nhiên trước khi ra đi. Đang nghĩ như vậy thì một cô gái trẻ ngồi cạnh tôi mấy hôm nay, cũng từ từ đổi sắc mặt và lập lại đúng câu đó, giống như những người kia. Tôi vốn dĩ rất nhát. Sau khi Mẹ tôi mất, tôi không dám đi ngang bàn thờ Mẹ một mình. Vậy mà lúc ấy, trước ánh mắt kỳ quái của cô ta, tôi không hốt hoảng chạy đi tìm chỗ khác như người ta. Tôi nghĩ ngay lập tức: "Đúng là hồn của Tuyết Nhiên nhập vào cô này rồi.” Tôi bình tĩnh, nghiêm trang nhìn thẳng vào ánh mắt đờ đẫn, kỳ quái của cô ta và nói: “Tuyết Nhiên, em có sống khôn, thác thiêng Xin em hãy tha thứ cho những ai đã sai lầm không cho nước để em được hồi sức. Em hãy phù hộ cho Mẹ, cho anh em của em và bà con trên ghe đuợc an toàn, không bị nguy hiểm đến tính mạng. Nguyện cầu Trời, Phật, Chư Thiên Thánh Thần và Thủy Thần cho hương linh em được siêu thoát về cõi vĩnh hằng. Tôi niệm: “ Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát ba lần.” Thật là quá ngạc nhiên! Chỉ trong vài phút sắc mặt cô ta trở lại bình thường và không nhớ mình vừa nói những lời cuối cùng của Tuyết Nhiên như vài người khác mà cô thấy trước đó. Càng lại ngạc nhiên hơn là vài phút sau đó có nhiều tiếng reo mừng: "Ồ, máy ghe đã nổ lại được rồi, ghe từ từ chuyển động và đi tiếp.” (Hai hiện tượng này không thể giải thích theo khoa học được và coi như hoang tưởng. Nhưng tất cả là sự thật một trăm phần trăm, mà cho đến nay tôi vẫn còn thắc mắc về sự kiện này.) Không khí ảm đạm và đau buồn, kèm theo sự lo lắng, sợ hãi lại tiếp tục phủ trùm những thuyền nhân trên chiếc ghe đang di chuyển trong vô định. Hôm nay đã bước vào ngày thứ năm giữa đại dương bao la. Tôi nhớ là ngày 28 tháng 09, năm1984. Tất cả mọi người gia tăng sự lo lắng và hoang mang, nôn nóng cầu mong gặp đuợc bất cứ tàu thuyền nào đi ngang qua cứu. Sức chịu đựng càng ngày, càng mỏi mòn, kiệt quệ, tinh thần suy sụp! Làm sao có thể cầm cự được lâu dài? Tùy theo tôn giáo riêng của mình, mọi người cùng khấn nguyện đấng thiêng liêng, hiển linh phù trợ. Riêng tôi thì liên tục cầu nguyện Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát gia hộ. Thấp thoáng từ phía xa xa có vài bóng dáng những chiếc tàu đi ngang qua, nhưng sau đó biến dạng. Thình lình, mọi người thấy một chiếc thuyền lớn xuất hiện và đang tiến dần về phía ghe của mình. Tất cả đều mừng rỡ và hy vọng gặp “Thần Hộ Mạng” đến cứu. Họ cho thuyền cặp sát ghe và quăng dây neo lên. Sau đó họ trèo qua ghe. Lúc đó tôi mới định thần và thấy năm người đàn ông đen như cột nhà cháy, râu ria rậm rạp, trên người chỉ mặc một quần xà lõn. Một người cầm súng dài. Tôi đoán có lẽ là tên cầm đầu? Bốn tên còn lại thì kẻ dao, người búa và mã tấu. Có tiếng xì xào “Chết mẹ rồi, gặp hải tặc là coi như xong đời.” Tự nhiên, toàn thân thể tôi cảm thấy rụng rời. Ôi! Trời, Phật xin hãy cứu con! Con luôn ngày đêm nguyện cầu: “Đừng cho con gặp hải tặc. Nếu gia đình con đã đến lúc tận cùng, mạt vận. Con thà chết trong lòng đại dương, còn hơn rơi vào tay bọn hải tặc.” Lời nguyện cầu của con không được Trời, Phật chứng giám. Không lẽ con tới số rồi sao? Tim tôi đập vào lồng ngực thình thịch y như tiếng trống. Tôi tưởng chừng như trái tim văng ra khỏi lồng ngực và tôi sẽ chết ngay tại chỗ. Bọn chúng trao đổi với nhau bằng tiếng Thái và ra dấu hiệu cho mọi người. Ai cũng đoán và hiểu là "Không được di chuyển hay động đậy. Nếu cãi lời sẽ bị quăng xuống biển ngay lập tức.” Thế là, chúng chia nhau đi lục soát từng người, tịch thu những gì quý giá mà chúng bắt gặp. Có cả trăm người bị chúng lục soát. Tôi và vài người khác không có gì đáng giá, còn đa số không ít thì nhiều đều bị chúng tước đoạt của cải. Tính ra chúng tịch thu cũng kha khá. Nhóm chủ tàu coi như bị thiệt hại nhiều nhất. Sau đó tên cầm súng mang các “chiến lợi phẩm” cướp được đem trở lại thuyền. Bốn tên hải tặc trên ghe dõi mắt nhìn theo hắn một cách chăm chú, hình như muốn xem tên đầu đảng cất giấu chiến lợi phẩm ở đâu? Bình thường, tôi được ví yếu như con sên, chậm hơn rùa vì thể lực tôi rất yếu đuối. Tôi chỉ muốn càng xa bọn chúng càng tốt, dù chiếc ghe dài chỉ khoảng hơn mười thước. Lợi dụng cơ hội này, tôi vụt đứng dậy, lao thật nhanh về phía cuối ghe, rồi ngội thụp xuống giữa tiếng lao xao của vài người “Bà nội này tới số rồi, muốn chết sao? Con nhỏ này chắc muốn bị ném xuống biển!” Ngay tức khắc, anh tài công ném cho tôi một cục nhớt đen thui và nói "Trắng quá, bôi ngay vào mặt đi." Tôi vội vã bôi ngay vào mặt mũi và khắp cả người. Vài cô ngồi bên cạnh nhao nhao kêu: "cho tôi xin cục nhớt với.” Anh tài công lại ném tiếp vài cục nữa về phía các cô gái. Thấy thế bọn cướp giơ cao hung khí la hét, chửi rủa và bắt phải im lặng. May sao, tên đầu đảng vẫn chưa quay lại ghe, nên bốn tên hải tặc tiếp tục đưa mắt nhìn về phía thuyền của chúng. Lúc này, nhìn lại thì tôi đang ngồi đối diện với Mẹ Tuyết Nhiên, mà trước đó khi hồn Tuyết Nhiên nhập vào vài người thì họ đã sợ chạy đi tìm chỗ khác, do đó nhiều người không còn ngồi vị trí cũ nữa. Lập tức, bà giao cho tôi đứa con gái út khoảng 2,3 tuổi và nói thật nhanh, giống như ra lệnh: "Cô hãy ôm cháu vào lòng ngay đi." Mấy cô ngồi bên cạnh tôi định giật đứa bé từ trên tay tôi. Mẹ Tuyết Nhiên nói: "Yên ngay! Cô này là Dì ruột của cháu bé này.” Lúc này, bọn cướp qua tức giận, chúng dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe và xồng xộc tiến về phía cuối ghe đang ồn ào. Tên cầm dao găm, gương mặt đầy thẹo, đen đúa, râu ria lổm chổm dùng cánh tay mặt xốc tôi đứng lên, khiến đứa bé đang được tôi bồng khóc thét lên và đưa hai tay bấu chặt vào người tôi. Tên cướp có vẻ hơi nao núng. Hắn đưa mắt thật nhanh nhìn đứa bé, rồi quay nhìn tôi. Thấy một phụ nữ có con quá dơ dáy, bẩn thỉu, trông thật gớm ghiếc, nên buông tôi ra. Sau đó bọn chúng đi lùng sục khắp ghe. Cuối cùng, bắt được năm cô gái trẻ, sạch sẽ, xinh đẹp. Chúng lôi xềnh xệch về phía thuyền của chúng, mặc kệ các cô vùng vẫy, kêu khóc thảm thiết, cùng với tiếng van xin, gào thét của thân nhân kẻ bị nạn. Trong số các cô bị chúng bắt mang theo có con gái chủ ghe mới 15 tuổi. Người trên ghe bèn đặt cho tôi một biệt danh là “Người đàn bà bị hải tặc chê.” Trườc khi rút lui, bọn chúng ra lệnh mọi người phải im và dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe làm thủng vài chỗ. Sau này, tôi được biết là nhóm tổ chức có mang theo vài cây súng để phòng thân, nhưng không dám chống cự, vì sợ nếu chống cự bọn hải tặc sẽ lên cơn điên và giết hết mọi người trên ghe. Do đó nhóm chủ ghe phải bó tay chịu trận, và đành đau lòng hy sinh ngay cả con gái của mình cho bọn hải tặc bắt mang đi. Chiếc thuyền của bọn cướp biển đang xa dần. Mọi người trên ghe vẫn còn sững sờ vì vừa trải qua một biến cố quá kinh hoàng. Những tiếng khóc của thân nhân các cô gái bị bắt đi thật sầu thảm. Tôi không biết mình đang tỉnh hay đang mê? Tôi đã thoát khỏi bàn tay hải tặc dễ dàng vậy sao? Làm sao tôi lại có can đảm đứng dậy chạy về phía cuối ghe, trong khi bọn cướp ra lệnh ở đâu phải ngồi đó, không được nhúc nhích. Trời, Phật, hay hồn thiêng của bé Tuyết Nhiên đã nhấc tôi đứng dậy, đẩy tôi chạy về cuối ghe, để may mắn gặp lại Mẹ Tuyết Nhiên và được bà trao em của Tuyết Nhiên cho tôi bồng, cũng như tại sao anh tài công đã ném cho tôi cục nhớt và nói tôi bôi ngay vào người nhanh lên? Nhờ đó, tôi đã thoát khỏi bàn tay hung ác của hải tặc trong đường tơ, kẻ tóc. Vậy là thêm một phép lạ đã cứu sống tôi. Mới có mấy ngày mà tôi đã suýt chết mấy lần. Liệu tôi còn sức và còn may mắn thêm lần nào nữa để được bến bờ tự do hay không? Mọi người bắt đầu lao xao: "Tát nước ngay, tát nước ngay! Nước tràn vào ghe rồi!" Đàn ông, thanh niên cố gắng dùng các vật dụng do chủ ghe đưa, cố ra sức tát nước đang làm ghe bị khẳm vì những lỗ thủng trên sàn ghe do bọn cướp gây ra. Ôi! Vừa không biết phương hướng, vừa chống chọi với đói khát, vừa lo hết nhiên liệu, vừa lo nguy cơ chiếc ghe sẽ bị chìm vì nước biển đang tràn vào. Bây giờ, mọi người thật sự thấy tử thần càng lúc, càng trở nên gần hơn. Sự khủng hoảng càng gia tăng, nhưng vẫn cố hy vọng "còn nước, còn tát." Chiếc ghe cứ lê lết đi tiếp. Tôi vẫn tiếp tục niệm Phật cầu nguyện và thiếp đi trong sự hãi hùng chưa nguôi. Tôi lập đi, lập lại trong đầu: "Con không thể chết được. Con là niềm hy vọng của gia đình. Con phải sống để cứu vớt gia đình đang trông mong vào con." Chiếc ghe tiếp tục di chuyển từ từ trong tuyệt vọng. Ánh nắng chiều dịu tắt dần, từ xa bỗng rực rỡ ánh đèn sáng ngời như từ cái tháp khổng lồ trên mặt nước. Vài người mừng rỡ, la lên: "Có giàn khoan dầu ở phía trước. Hãy cố gắng hướng về phía đó. Hy vọng sẽ được vớt." Tôi chợt bừng tỉnh, nhìn những ánh đèn màu rực rỡ ở trên cao, ngày càng gần hơn, tôi tưởng như mình đang mơ khi được thấy cung điện của Thủy Thần trong một truyện thần thoại. Nghe tiếng reo mừng của mọi người trên ghe, tôi biết đây là sự thật! Không phải là ảo tưởng hay trong mơ. Tôi tưởng chừng ngất lịm trong nỗi vui mừng tột độ, và muốn hét to lên: "Vậy là coi như thoát chết, sẽ được giàn khoan cứu vớt, sẽ được đến bến bờ tự do như đã cầu khẩn. Vậy là đã được Trời, Phật chứng giám, độ trì.”
Mọi nguời như được uống thuốc hồi sinh. Đàn ông, thanh niên ra cố gắng ra sức tát nước nhiều hơn, chiếc ghe dường như cũng đi nhanh hơn. Một lúc sau chiếc ghe đã đến được gần chiếc tàu khổng lồ treo cờ Anh Quốc với hàng chữ to PANAMA. Dù vô cùng vui mừng, nhưng tôi lại rơi vào tình trạng hôn mê vì đã kiệt sức từ lúc quá hãi hùng khi vừa thoát bọn hải tặc sáng nay. Một lát sau, tôi mơ hồ thấy có người cho nước uống, nên tỉnh dậy, thì ra đó là vài ba thủy thủ của tàu Panama đang cho chúng tôi nước và một số thức ăn. Tôi nghe thoáng thoáng tiếng người nói “Có một cựu Trung Úy Quân Đội VNCH đã lên gặp Thuyền Trưởng xin được cứu vớt, nhưng ông ta từ chối. Và một cưụ Trung Tá hiện đang tiếp xúc với Thuyền Trưởng cũng để tiếp tục cầu xin cứu vớt." Nhưng vài phút sau, ông Trung Tá trở lại ghe với nỗi buồn tuyệt vọng cho biết: “Thuyền Trưởng không thể nào cứu được, vì họ đang làm nhiệm vụ khai thác dầu hoả. Ông tặng ghe chúng ta một hải bàn và hướng dẫn đi về hướng trại tị nạn. Ông nói, trên đường đi sẽ gặp tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc và họ sẽ cứu chúng ta.” Ai ai cũng đều thất vọng, nhưng cũng mừng vì đã có hải bàn và hy vọng sẽ có tàu đến cứu. Hiện giờ đã được cung cấp nước uống, thức ăn, một số quần áo; không như trước đây trong hoàn cảnh đói khát, vô phuơng hướng, vô tin tức và sống trong tuyệt vọng. Tôi đang hồi tỉnh một chút thì lại choáng váng khi nghe tin không may này. Bất ngờ, có một thanh niên la to lên: "Trong chuyến đi này có một cô giáo dạy Anh Văn tên Duyên. Vậy cô Duyên có trên ghe không? Nếu có, sao cô không chịu lên gặp Thuyền Trưởng xin cứu giúp đi?" Tôi đoán thanh niên này là Khánh, em vợ của anh Nguyễn Quốc Trụ. Khánh chưa hề gặp tôi, nhưng đã được anh Trụ dặn: "Hãy nhớ tìm cô Duyên, cô giáo dạy tiếng Anh đi trong chuyến này”. Mọi người lao xao la to theo: “Cô Duyên đâu? Cô Duyên đâu?” Tôi chưa kịp trả lời thì nghe tiếng xì xào: "Chắc cô ta bị quăng xuống “ghe taxi” hay bị hải tặc bắt đi theo rồi chăng?” Tôi không còn đủ hơi sức để lên tiếng, chỉ đưa tay vẫy vẫy. Có người nói: "Ồ! cái bà tưởng đã chết hồi sáng nay.” Hai thanh niên còn khoẻ mạnh vội tiến về phía tôi, một người khiêng đầu, một người khiêng chân để đưa tôi lên thang dây, sau đó họ đặt tôi nằm trên sàn tàu. Chỉ vài phút sau, có một Bác Sĩ và vài thủy thủ vây chung quanh tôi. Họ cho tôi thở Oxy, tiếp theo cho uống một loại nước hay thuốc gì đó. Vị Bác Sĩ tiếp tục đo huyết áp, nghe tim, phổi và theo dõi. Ông nói tôi cứ thở tự nhiên. Được hít thở gió biển trong lành khoảng 15 phút, tôi thật sư tưởng mình đã được uống thuốc tiên “cải tử hoàn sinh” trong các truyện cổ tích. Tôi có thể trả lời các câu hỏi của Bác Sĩ bằng giọng nói rõ ràng, và xin được đứng dậy để được nói chuyện với Thuyền Trưởng cũng đang đứng tại đó. Lần đầu tiên được đứng trên sàn tàu vững chắc, kiên cố, rộng mênh mông, mà trước đó chỉ được ngồi chen chúc như cá hộp trên chiếc ghe mong manh; rồi đói khát, lo sợ hãi hùng với bao biến cố cận kề cái chết. Nhìn những ánh đèn màu rực rỡ từ trên cao của giàn khoang giữa những màu sắc lung linh của mặt trời như một viên hồng ngọc trên mặt nước biển vào lúc hoàng hôn, khiến tôi tưởng mình đang ở Thiên Đàng. Nếu may mắn được Thuyền Trưởng cứu, cho lên chiếc tàu Panama, thì đúng như từ âm phủ được lên cõi Tiên. Sau khi nghe tôi trình bày "Chúng tôi là những người ra đi từ miền Nam Việt Nam, đã bất chấp mạng sống, bất chấp hiểm nguy để đi tìm tự do bằng chiếc ghe bé bỏng, mong manh và hiện đang bị vô nước vì hải tặc đâm thủng." Vị Thuyền Trưởng lắc đầu, rồi buồn bã nói: “Tôi rất tiếc không thể cứu quý vị được. Trước đó đã có hai người đàn ông nói chuyện tôi về yên cầu này. Tôi đã giải thích lý do tôi không thể cứu được. Thứ nhất: Chúng tôi đang khai thác dầu hỏa tại nước Malaysia này, chúng tôi không có đầy đủ phương tiện cứu nạn. Thứ hai: Số người trên ghe quý vị phải hơn 100 người, chúng tôi lại càng gặp rất nhiều khó khăn để giúp đỡ. Tuy nhiên, xin quý vị đừng nên lo lắng. Hãy an tâm. Tôi đã cung cấp hải bàn để định phương hướng trên biển. Tôi đã hướng dẫn kỹ lưỡng đi về phía có trại tị nạn gần nhất, và tôi sẽ liên lạc với các tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đang di chuyển gần đây đến để cứu quý vị. Các thủy thủ chúng tôi đã làm mọi cách để giúp quý vị rồi. Tôi nghĩ quý vị sẽ lên đường bình an.” Đến đây, tôi lại thấy đầu óc quay cuồng. Từ lúc đầu tiên lọt vào được chiếc ghe Cá Lớn cho đến nay đã 5 ngày lênh đênh giữa đại dương trong tuyệt vọng. Nếu không có những phép lạ xảy ra, làm sao tôi còn sống sót đến giờ phút này. Ôi!Tại sao có thể như thế này? Phải cố gắng nài nỉ, van xin Thuyền Trưởng. Tôi cố gắng trình bày với Thuyền Trưởng những biến cố hãi hùng, những nguy hiểm mà chúng tôi đã trải qua mấy ngày hôm nay như: không có người biết lái, nên chiếc ghe trôi vô dịnh, một cô bé đã chết khát và phải bị ném xuống biển, 5 thiếu nữ đã bị hải tặc bắt đem theo sáng nay. Trước khi rút lui bọn hải tặc đã làm thủng ghe, hiện phải tát nước để có thể cầm cự, sống còn. May mắn đã gặp giàn khoang của các ông. Bây giờ chờ được tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, có lẽ tất cả chúng tôi sẽ làm mồi cho biển cả không bao lâu nữa. Thuyền Trưởng lộ vẻ xúc động, nhưng lại trấn an tôi: “Bây giờ đã có phương hướng, và sẽ có tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, quý vị đã có đủ lương thực và nước uống trong vài ngày nữa, xin cứ an tâm”. Chỉ nghĩ khi tôi trở về chiếc ghe mong manh, chật ních, ngột ngạt vì bao nhiêu mùi hôi hám cũng đủ chết. Trên ghe ai có đủ khả năng biết xử dụng hải bàn để lái cho đúng hướng? "Sai một ly sẽ đi một dặm” giữa đại dương thì cũng sẽ lạc hướng, tiếp tục trong vô định. Thêm vào đó tình trạng chiếc ghe bị đục thủng thì làm sao cầm cự cho đến khi gặp được tàu của Cao Ủy LHQ? Đứng trên sàn tàu kiên cố này, tôi thấy rõ rằng. Đây là đất sống. Chiếc ghe mong manh kia là miền đất chết. Tất cả sẽ đi vào cõi chết nếu như không được lên tàu Panama này. Giờ phút này gặp giàn khoang mà không được cứu, thì đúng là số tôi phải chết dưới lòng biển rồi. Tôi lặng người khẩn cầu Trời, Phật: “Gia đình con thật sự đã đến lúc tận cùng mạt vận, nên con đã thoát khỏi tay hải tặc, nhưng phải chịu chết dưới lòng đại dương như đã khấn nguyện chăng? Tại sao Trời, Phật đã ra tay cứu con thoát khỏi bao nguy hiểm từ lúc ban đầu, mà nay phải bắt con chết tức tửi, giữa lúc tưởng rằng thật sự thoát mọi hiểm nguy? Tại sao? Tại sao? Nguời cha già, cả một đời là công chức hiền lương cuối cùng phải lâm nạn; các em thơ dại đã chịu đựng quá nhiều đau khổ trong bao nhiêu năm, nay sẽ càng đau thương hơn?” Con phải sống. Con chỉ có ước nguyện giúp cha già, các em dại ra khỏi đường hầm, đen tối của đau khổ, và con cầu xin được gặp lại một “thiên thần” đang tha thiết chờ đợi con. Nhưng giờ phút này, tôi thấy thật sự hoàn toàn tuyệt vọng rồi, nên nước mắt đầm đìa, ngước nhìn Thuyền Trưởng khẩn khoản trong nghẹn ngào. "Nếu ông cương quyết từ chối, tôi xin thay mặt hơn 100 người xin kính chào Vĩnh Biệt. Vì tôi tin chắc rằng giờ phút tôi rời khỏi nơi đây, trở về chiếc ghe bất hạnh, tất cả chúng tôi sẽ chết dưới lòng biển. Chiếc ghe đã bị đục thủng và đang bị vô nước trầm trọng thì làm sao chúng tôi có thể có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ cứu như lời Thuyền Trưởng nói. Xin Vĩnh Biệt Thuyền Trưởng!” Sau lời chào vĩnh biệt đầy nước mắt trong nỗi tuyệt vọng của tôi, Thuyền Trưởng xúc động thật sự. Ông hỏi tôi: “Có tất cả bao nhiêu trẻ con và phụ nữ trên ghe?” Tôi trả lời “Tôi không biết”, nhưng có lẽ ít hơn đàn ông và thanh niên. Ông nói tiếp: “Trong điều kiện của chúng tôi hiện tại, chúng tôi chỉ cố gắng cứu trẻ em, phụ nữ. Đây là những người dễ dàng bị chết trong cơn nguy hiểm. Riêng các đàn ông, thanh niên xin tiếp tục lên đường, sẽ được tàu của Cao Ủy LHQ hay các tàu khác đi ngang qua gặp sẽ cứu. Ôi! Thuyền Trưởng đã đổi ý! Đã bằng lòng cứu trẻ con và phụ nữ. Vậy là tôi thật sự thoát chết, và chắc chắn sẽ được đến bến bờ “Tự Do” như hằng ước nguyện. Ôi! Vô vàn cảm tạ Thuyền Trưởng! Ôi! Phải chăng Thượng Đế, Trời, Phật, những người khuất mặt đã làm Thuyền Trưởng đổi ý? Tôi quay qua nói với hai thanh niên khiêng tôi lên đây, và vẫn đang đứng đó, nóng lòng chờ kết quả: “Thuyền Trưởng chỉ có thể cứu trẻ con, phụ nữ mà thôi!" Hai anh thét to lên: “Thuyền Trưởng đã đồng ý cứu trẻ con và phụ nữ.” Sau đó ông ra lệnh cho các Thủy Thủ xuống ghe, bồng bế các trẻ con, phụ giúp các phụ nữ bước lên thang dây của tàu Panama. Tổng cộng đếm được tất cả là 50 người. Mọi người khóc nức nở, đưa tay vẫy chào những người thân: chồng, cha, chú, bác, cậu, anh em…phải ở lại chiếc ghe không lành lặn, trải qua bao biến cố hiểm nguy, đau buồn, biết đến bao giờ có cơ hội đoàn tụ hay sẽ vĩnh viễn chia lìa? Mặc dù tôi không có bất cứ người thân nào trên chiếc ghe này, nhưng trước cảnh chia ly não nề với những người đã chịu cùng chung số phận với mình từ ngày 23 tháng 09. Nay cá nhân tôi sẽ được bình yên, đến được bến bờ Tự Do mà ai cũng mơ ước; còn họ sẽ đi về đâu, khi tiếp tục lênh đênh trên biển cả, dù được cung cấp đầy dủ phương tiện đi biển? Nhưng chiếc ghe đang bị vô nước và không ai có kinh nghiệm đi biển thì làm sao đi đúng hướng và biết đến khi nào gặp được tàu của Cao Ủy LHQ hay bất cứ tàu nào khác tiếp cứu. Theo tôi tất cả là vô vọng. Tôi vẫn cảm thấy “Chiếc ghe ấy là cõi chết”, nên tôi rất đau lòng và suy nghĩ. Hay mình thử cố gắng năn nỉ Thuyền Trưởng cứu họ. Ông đã can đảm không xin lệnh cấp trên để tự quyết định cứu trẻ con, phụ nữ. Bây gìờ mình yêu sách thêm. Không biết ông sẽ phản ứng ra sao? Mình có quá đáng và không biết sự quảng đại của ông không? Nhìn thấy 50 người đứng chiếm một diện tích bé nhỏ khoảng vài phần trăm trên con tàu khổng lồ, kiên cố chẳng đáng là bao. Dù lo sợ, tôi tiếp tục cố gắng nói với ông: “Thưa Thuyền Trưởng, xin ông tha thứ cho tôi. Tôi rất đội ơn ông đã cứu mạng tôi và những người khác. Nay xin ông hãy cứu tất cả mọi người còn lại. Với chiếc ghe như vậy, tôi không tin họ sẽ có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ. Chúng tôi không cần thức ăn, quần áo, chúng tôi chỉ cần một nơi an toàn có hy vọng được sống. Chiếc tàu của ông là đất sống, chiếc ghe kia là cõi chết. Nếu ông nhận thêm những người kia mà tôi nghĩ chỉ chiếm thêm diện tích không đáng là bao của chiếc tàu khổng lồ này, và tất cả cùng chờ đợi gặp tàu của Cao Ủy LHQ đến giúp đưa đi tới trại tị nạn. “Có lẽ Thuyền Trưởng đã xúc động giữa tiếng khóc nghẹn ngào, những tiếng chào biệt ly, dù bằng tiếng Việt, một ngôn ngữ mà ông hoàn toàn xa lạ và không hiểu: “Ba ráng bảo trọng, tạm biệt anh; tạm biệt con, tạm biệt cậu, chú vvv…” nên ông lặng yên, trầm ngâm suy nghĩ với ánh mắt đầy xúc động. Sau một, hai phút, ông nhìn tôi nhè nhẹ gật đầu và ra dấu bằng lòng cứu tất cả mọi người còn lại trên ghe. Nhiều tiếng hét to: “Thuyền Trưởng bằng lòng cứu tất cả mọi người.” Ôi! Không còn gì may mắn và hạnh phúc hơn! Cảnh tượng đau lòng như một đám tang tập thể trước đó, lập tức trở thành hân hoan, vui sướng với mọi người. Thế là, từng người vội vã cuống quýt leo lên thang dây với sự giúp đỡ của các Thủy Thủ để bước lên sàn tàu. Những khuôn mặt rạng rỡ lẫn ngỡ ngàng, dù nét lo âu, khủng hoảng vẫn còn in trên nét mặt. Khi không còn ai lên nữa, vài thủy thủ hỏi to bằng tiếng Anh: “Còn ai ở dưới ghe không?” Không có tiếng trả lời. Họ hỏi thêm vài lần nữa! và nói chúng tôi xem lại có người nào bị kiệt sức, ngất xỉu chưa lên được chăng? Tất cả gia đình cùng xem lại thân nhân của mình. Thật là một cử chỉ nhân từ và chu đáo! Sau đó các thủy thủ dùng búa chặt đứt sợi dây thừng to dùng để cột chiếc ghe vào tàu Panama trước đó, chiếc ghe tròng trành, lơ lửng trôi bềnh bồng, trên đó có chiếc túi xách mà lúc hai người khiêng tôi lên tàu Panama tôi làm rớt lại. Biểu tượng thần thoại, cánh chim Đại Bàng mà tôi thường mang theo trong những lần vượt biên từ nay sẽ trôi theo giòng nước, không bao giờ cùng tôi đi tiếp bất cứ nơi đâu! Tất cả mọi người được yêu cầu đứng xếp hàng để đếm số người. Tất cả 137 người gồm: trẻ em, phụ nữ, thanh niên và đàn ông. Vừa mới đếm xong thì vài phút sau bỗng nhiên giông tố ầm ầm từ đâu kéo tới, kèm theo những đợt sóng khổng lồ đánh tràn vào cả sàn tàu. Các thủy thủ vội vã dùng những sợi dây thừng thật to, cột mọi người lại với nhau, và sau đó buộc chặt vào các cột tàu để không bị sóng đánh cuốn trôi đi. Một sự kinh hoàng diễn ra trước mắt mọi người đang bị ướt đẫm: Chiếc ghe mà truớc đó chứa cả trăm người chỉ trong nháy mắt đã bị nhận chìm theo những đợt sóng khổng lồ, rồi mất hút ngay dưới cơn mưa tầm tã đổ xuống như thác, sấm chớp nổ vang khắp trời. 137 người trong đó có tôi đã chết đi và sống lại trong sự nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật??? Nếu không may mắn gặp vị Thuyền Trưởng đầy lòng bác ái và nhân từ này thì chúng tôi đã cùng theo chiếc ghe chìm sâu vào lòng đại dương lúc đó. Tôi đi từ bàng hoàng này sang đến bàng hoàng khác. Chỉ trong năm ngày lênh đênh trên biển, tôi đã chứng nghiệm được quá nhiều phép nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật đã cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần, và kể từ giờ phút này đã cùng 136 người được trở về từ cõi chết. Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ cảm thấy vui mừng đã cứu đuợc 137 người một cách bất ngờ. Chỉ trong vòng vài phút đã có những tấm bạt khổng lồ được căng lên che chở cho đoàn người chúng tôi đang bị ướt sũng, và lạnh run cầm cập bởi những luồng gió mạnh như vũ bão quất thẳng vào người. Sau đó mọi người được các Thủy Thủ đưa vào các phòng cho ấm. Rồi họ phân phát những cục xà bông thơm phức và một số quần áo, yêu cầu mọi người lần lượt, từng nhóm bốn, năm người, chia ra nam theo nam, nữ theo nữ đi tắm, vì không có đủ phòng tắm cho từng người tắm riêng. Lúc bấy giờ, tôi đã hoàn hồn, và không còn lạnh run nữa, không khỏi bật cười khi nhìn thấy vài cô mặt mũi, mình mẫy vẫn còn dính đầy nhớt, lem luốc trông thật gớm ghiếc (giống như tôi). Sau khi được tắm rửa sạch sẽ, ấm áp, mọi người được mời vào phòng ăn. Bao nhiêu thức ăn được khui ra từ các hộp thịt, hộp súp đã được bày sẵn trên các bàn trong căn phòng sáng rực những ánh đèn Néon. Chỉ mới sau mấy ngày đói khát, luôn luôn bị khủng hoảng, lo sợ, và lúc nào cũng kề cận với Tử Thần, chúng tôi cảm thấy như được thưởng thức một bửa yến tiệc linh đình, thịnh soạn do chiếc Đèn Thần của Aladin biến hoá. Tôi nhờ vài thanh niên đi vòng quanh càc bàn nhắc nhở mọi người dùng súp truớc, cố gắng ăn từ từ và ít thôi để bao tử không bị ảnh hưởng, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng khi chuyển từ tình trạng quá đói sang quá no. Mọi người lại được phân phát mền, dù không đủ cho mọi người, nhưng chúng tôi vui vẻ, chia theo nhóm đắp chung cho càng ấm, và nằm tạm trên sàn tàu dưới những tấm bạt che mưa vẫn đang còn rỉ rả. Riêng tôi thì may mắn được ngủ trong một phòng riêng nho nhỏ, có lẽ của một Thủy Thủ nhường chỗ cho dùng tạm trong thời gian chờ đợi này? Cơn giông bão đã ngưng gầm thét để cho mọi người được ngủ yên trong niềm vui sướng và diễm phúc lớn lao nhất: Đã sống lại từ cõi chết và sẽ đến bến bờ Tự Do như ước nguyện. Chưa bao giờ tôi có một giấc ngủ thật say trong tâm trạng bình an, và tinh thần phơi phới như đêm hôm đó! Chúng tôi chỉ van xin Thuyền Trưởng cho chúng tôi một chỗ ngồi trên sàn tàu Panama kiên cố, để được sống sót, và chờ đợi được tàu của Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc đến cứu. Chúng tôi không dám mong được ăn uống, phân phát chăn mền, quần áo như thế này. Chắc là đoàn người chúng tôi đã tiêu thụ hết thực phẩm, quần áo dự trữ của tất cả Thủy Thủ đoàn? Có thể vì thế mà Thuyền Trưởng đã cương quyết từ chối lúc ban đầu. Ơn cứu mạng này của Thuyền Trưởng chắc chắn không bao giờ có thể đền trả được. Mọi người sung sướng, yên tâm chờ đợi trên tàu Panama thêm một ngày và một đêm. Lần thứ hai được nằm trên chiếc giường bé nhỏ có chăn nệm trắng phau giữa tiếng sóng biển rì rào và thỉnh thoảng có tiếng ầm ầm của những cơn sóng từ xa vọng lại, không khí mát dịu, trong lành mà chưa bao giờ tôi có trong đời đã đưa tôi chìm vào giấc ngủ thật dễ dàng và êm ái. Tiếng gõ cửa của một Thủy Thủ đánh thức tôi dậy giữa lúc tôi còn đắm chìm trong giấc ngủ êm đềm. Anh ta nói khi tôi vừa mở cửa "Tôi xin lỗi đã đánh thức cô. Cô đã có một giấc ngủ ngon không? Thuyền Trưởng muốn gặp cô". Tôi vội theo anh ta bước lên cầu thang dẫn tới boong tàu trên cao. Dưới ánh bình minh giữa đại dương, mặt trời thật rạng rỡ trên mặt nước bao la xanh biếc, cảnh sắc còn đẹp hơn cả bức tranh thủy mạc. Vị Thuyền Trưởng cứu tinh của chúng tôi đang đứng chờ và đưa tay ra bắt trong lúc tôi chào ông ta. Sau đó, với khuôn mặt thật nghiêm trang quay về phía mặt Trời đang tiếp tục lên cao trên mặt nước, vị Thuyền Trưởng quỳ xuống, lâm râm vài lời và làm dấu lạy Thượng Đế theo kiểu Thiên Chúa Giáo, tôi cũng vội vã quỳ xuống theo. Rồi Thuyền Trưởng đứng đậy, nói: "Cảm ơn Thượng Đế đã nhờ Cô cho tôi cơ hội cứu được 137 người. Đúng như lời cô, nếu tôi không thay đổi quyết định kịp thời, 137 người đã thật sự bị chôn vùi dưới lòng đại dương lúc đó. Và suốt hai ngày nay, tôi không liên lạc được với bất kỳ tàu nào của Cao Ủy, vì ảnh hưởng của cơn bão, điện thoại cũng hoàn toàn bị tê liệt. Hôm nay, không thể chờ thêm nữa, chúng tôi phải nhổ neo để đưa quý vị đến một trại tị nạn gần đây nhất. "Tôi rưng rưng nước mắt, chỉ biết tận đáy lòng, vô cùng cảm ơn cứu mạng của Thuyền Trưởng. Tôi xin ông cho tôi cơ hội được liên lạc với ông trong tương lai khi được định cư. Thuyền Trưởng về phòng, vài phút sau trở ra trao cho mảnh giấy có ghi tên, địa chỉ ở đất liền bằng chữ viết tay: Captain Brian O' Connell 17 Arundel Close Bexley Kent England U.K Các Thủy Thủ được lệnh nhổ neo tiếp tục lên đường, tàu từ từ xa giàn khoan đứng sừng sững như toà lâu đài giữa đại dương vào buổi sáng ngày 30 tháng 09, năm 1984. Buổi chiều cùng ngày thì đến Đảo Pulau Bidong, một trại tị nạn dành cho các thuyền nhân Việt Nam trên quốc gia Mã Lai Á. Mọi người coi như đã đạt ước nguyện nhờ ơn cứu mang của vị Thuyền Trưởng có tấm lòng bác ái bao la, "Thuyền Trưởng O'Connell”. Lần lượt từng người chào từ biệt Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ với tất cả sự biết ơn không có lời nào có thể diễn tả được. Tất cả Thủy Thủ đoàn và Thuyền Trưởng hân hoan chúc chúng tôi may mắn, sớm được định cư ở một nước thứ ba. Vì tàu được cặp vào đất liền, chúng tôi không phài dùng thang dây để leo xuống như lúc ở giữa biển. Mọi người ung dung bước ra khỏi tàu như bước ra khỏi phi cơ, có lối đi thẳng lên chiếc cầu giữa mặt nước, rồi cao lên dần cho đến khi giáp với đất liền. Sau này tôi được biết tên cây cầu là Jetty. Thuyền trưởng O’Connell bắt tay từ biệt tôi lần cuối, sau khi giới thiệu tôi với các Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đang đứng chờ đón đoàn người tị nạn được tàu Panama bàn giao. Một trang sách mới đã được lật qua trong dòng đời của 137 thuyền nhân sống sót nhờ một phép mầu vào ngày 28 tháng 09, năm 1984 vì đã may mắn gặp được vị Thuyền Trưởng giàu lòng nhân ái. Và bắt đầu đoạn đời tị nạn từ đây với mã số do Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn đăt tên theo thứ tự khi có đoàn người tới đảo: MB 224 Pulau Bidong. Vẫy tay chào tàu Panama đang xa dần trên mặt nước mênh mông, tôi vẫn còn ngẩn ngơ như đang mê ngủ. Đứng trên nền cát trắng, dưới những hàng dừa xanh cao vút dọc theo bãi biển, tôi hướng về phía mặt trời rực rỡ đang dần dần đi xuống gần mặt nước xanh trong vắt, thành tâm khấn nguyện lời cảm tạ Thượng Đế,Trời, Phật, những hương linh đã cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần đầy nhiệm mầu qua bao biến cố kinh hoàng suốt mấy ngày qua. Từ đây, bắt đầu một khúc rẽ cuộc đời như một hành khất đi chân đất, với hai bàn tay không; cái túi xách nhỏ có vài kỷ niệm và đôi dép đã bị rớt lại trên chiếc ghe trong lúc được khiêng lên tàu Panama. Tôi đã không dám xin đôi giầy hoặc dép trong thời gian chờ đợi, vì đã nói với Thuyền Trưởng: Chỉ xin một chỗ đứng trên “vùng đất sống”. Hành trang tôi mang đến Pulau Bidong chỉ có một trái tim tràn ngập lòng biết ơn Thượng Đế, Trời, Phật và những ân nhân đã cứu giúp tôi trên từng bước đường đời, sự thương nhớ những người thân yêu còn lại đang vất vả nơi quê nhà, và đang ấp ủ những ước mơ cho ngày mai tươi sáng. Bên cạnh đó là một linh hồn nặng trĩu với những hình ảnh hãi hùng, tuyệt vọng trong cuộc hành trình đi tìm "Tự Do", với bao ký ức đau buồn của những năm tháng "đại bác đêm đêm vọng về thành phố" trên quê hương. Một linh hồn quằn quại vì sự tan nát của gia đình khi chiến tranh chấm dứt trong cảnh nước mất, nhà tan, đau thương, thống khổ chất chồng. Thấm thoát đã hơn ba mươi mốt năm trôi qua. Tôi đã bước qua bao nhiêu ngã rẽ cuộc đời như chiếc thuyền trôi theo giòng nước. Có những lúc rẽ qua giòng suối nên thơ, có đôi khi rẽ vào giòng sông êm ả và cũng có lúc di vào lòng biển khơi đang trong cơn giông tố. Ở bất kỳ ngã rẽ nào, không có một khoảnh khắc nào trong đời, tôi có thể quên được những phép lạ đã cứu vớt tôi trong chuyến đi nhiệm màu ấy. Những lời cuối cho dòng hồi ức về những phép lạ tôi đang kể lại, xin thay mặt 137 người cùng thoát chết dưới lòng đại dương trong cơn giông bão vào buổi chiều ngày 28 tháng 09, năm 1984, và bây giờ không biết đang tản mạn ở các phương trời nào, ai còn, ai mất, thành tâm gửi đến Thuyền Trưởng Brian O' Connell (cũng không biết ông đang phiêu du ở chân trời, góc bể nào), lòng biết ơn vô bờ bến và không bao giờ đền trả được ơn cứu mạng ngày ấy. Ước nguyện tha thiết nhất của tôi trong những năm tháng cuối cuộc đời là được Ơn Trên ban phép lạ cho tôi tìm được tin tức vị Thuyền Trưởng có tấm lòng bác ái bao la đã cứu 137 người tưởng chừng như chắc chắn là chết được trở về đất sống Sự liên lạc của tôi với Thuyền Trưởng đã bị cắt đứt, sau bức thư gửi đến ông năm 1988 đã bị trả về với hàng chữ: "Moved to unknown address". Nhiều năm nay, các con tôi đã cố truy tìm trên nhiều trang mạng từ Internet, nhưng tảt cả đều vô vọng. Cũng xin thay mặt 137 thuyền nhân, gửi đến tảt cả Thủy Thủ đoàn của tàu Panama ngày ấy sự biết ơn sâu xa trước sự giúp đỡ nhiệt tình đầy lòng bác ái của quý vị. Từ đáy lòng , xin gửi đến cô Minh, mẹ của Tuyết Nhiên, và anh tài công sự biết ơn vô bờ đã giúp tôi thoát khỏi bọn hải tặc một cách nhiệm mầu, khi giao cháu bé và liệng cục nhớt cho tôi kịp thời trong tích tắc. Và cũng tận đáy lòng, xin chân thành đặc biệt gửi đến ân nhân Nguyễn Vĩnh Tôn sự biết ơn vô bờ đã giúp tôi bước lên chiếc thuyền định mạng ngày 23 tháng 09, năm 1984. NVT mãi mãi là một Thiên Thần của sự trong sáng và cao quý trong hồn tôi. Giờ đây, tôi xin thắp một nén hương dâng lên hương linh của anh Nguyễn Quốc Trụ với tất cả sự biết ơn chân thành nhất của một người hân hạnh và may mắn đã được anh giúp trong chuyến vượt biên này. Và cùng hàng triệu Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, xin tưởng nhớ, ghi ơn những anh hùng đã hy sinh bảo vệ VNCH, trong đó có người anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Quốc Trụ, SVSQ/ Khoá 20 Võ Bị Đà Lạt, Đại Úy thuộc Binh Chủng Nhảy Dù, người đã tham dự trận chiến khốc liệt nhất trong quân sử VNCH, trận Đồi 31, Lam Sơn 719, Hạ Lào 1971, nơi anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đương đã nằm xuống, và đi vào huyền thoại qua nhạc phẩm bất hủ "Anh không Chết Đâu Anh" của Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh, còn anh Nguyễn Quốc Trụ và nhiều Sĩ Quan, binh sĩ đã bị bắt làm tù binh trong những trại tù nghiệt ngã ở Bắc Việt cho đến năm 1979. Xin thắp một nén hương dâng lên người Cô (Dì) yêu dấu Hồng Hoàng Lan, với tất cả sự biết ơn của người cháu được Cô thay Mẹ, an ủi, đùm bọc trong giai đoạn gia đình tan nát, đau thương sau biến cố lịch sử 30 tháng 04, năm 1975. Cô là người duy nhất trong gia đình Mẹ tôi còn ở lại Hà Nội sau năm 1954 vì đã không thể bỏ lại những cây đàn yêu quý để ra đi. Là một nhạc sĩ xử dụng đàn Violoncelle trong Dàn Nhạc Giao Hưởng Hà Nội, cô đã kịp thời vào Sàigòn để đưa tiễn Mẹ tôi về cõi vĩnh hằng ngay sau 30-4-1975. Cô cũng là người đã khuyến khích, giúp tôi tìm đường vượt biên, và bắt nhịp cầu cho tôi được bước vào chuyến đi hãi hùng, nhưng mầu nhiệm này. Và xin thắp một nén hương nguyện cầu cho hương linh em Tuyết Nhiên cùng tất cả những thuyền nhân đã nằm xuống lòng đại dương trong những cuộc hành trình đi tìm Tự Do đưọc an nghỉ nơi vùng trời miên viễn. Nếu không có những phép lạ nhiệm mầu cứu vớt, 137 người trong đó có tôi cũng đã chung số phận âm thầm nằm trong lòng biển cả ngày 28 tháng 09, năm 1984. Và những biến cố dồn dập xảy ra trong suốt cuộc hành trình không bao giờ thân nhân được biết. Cuối cùng, xin chân thành gửi đến anh Trần Đình Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đã khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt tình giúp tôi hoàn tất viết lại những dòng hồi ký đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này. Toronto, Giáng Sinh 2015
Phạm T. Duyên
|
|
Internet - TG Dong Minh
Guest
|
Post by Internet - TG Dong Minh on May 21, 2019 15:10:57 GMT -6
Người Bác Sĩ có phép lạ
Đại hội thần kinh thế giới lần thứ 22 diễn ra tại Santiago, Chile (31/10 -5/11) năm nay. Nhiều người thấy ngạc nhiên vì có một cái tên Việt Nam xuất hiện trong tư cách là ứng cử viên Ủy viên giám sát của Ủy ban điều hành Hội thần kinh thế giới (WFN), đó là bác sĩ Daniel Trương Dũng ở thành phố Fountain Valley. Orange County. Ca.
BS Daniel có nhiều khám phá mới trong việc chữa trị bệnh Parkinson ..... Được biết ông là cựu học sinh trường trung học Võ Trường Toản, Saigon. Trong giới thần kinh thế giới, bác sĩ Daniel Trương là một nhân vật “quen mặt” – một bác sĩ nổi tiếng trong ngành thần kinh Parkinson và là diễn giả có mặt ở rất nhiều Hội nghị chuyên ngành quốc tế khắp nơi trên thế giới ! Nếu đắc cử vào chức vụ Ủy viên giám sát, bác sĩ Daniel Trương sẽ cùng 4 nhà khoa học nữa điều hành các chương trình nghiên cứu trong địa hạt thần kinh trên thế giới trong bốn năm tới. Để ứng cử vào vị trí này, mỗi ứng cử viên cần có 5 nước đề cử. Bác sĩ Daniel được sự tín nhiệm của 14 Hội thần kinh quốc gia gồm có Mỹ, nơi ông đang làm việc, Việt Nam – nơi ông sinh ra - Đức, Bulgaria, Trung Quốc, Hungary, Kazakhstan, Kuwait, Mexico, Pakistan, Rumania, Saudi Arabian, Slovenia, Singapore… cho đến trước ngày khai mạc Hội nghị 31/10 năm nay. Chủ tịch Hội thần kinh Việt Nam, GS.TS Lê Hinh nhận xét: “Ông ấy là một bác sĩ tài năng và tâm huyết. Thay mặt cho Hội thần kinh quốc gia Việt Nam, tôi đề cử bác sĩ Daniel Truong và tôi tin ông ấy xứng đáng cho vị trí này”. Bác sĩ Daniel là người Việt Nam đầu tiên đến Đức theo học ngành Y từ năm 1967 và sau này tiếp tục học bác sĩ nội trú tại các đại học danh tiếng như như Medical University of South Carolina, thực tập sinh tại Columbia University và London’s National Hospital for Nervous Disease. Ông trở nên nổi tiếng ở Mỹ từ những năm 1990 - khi tờ Los Angeles Times gọi ông là “bác sĩ có phép lạ” – khi lần đầu tiên ở Mỹ, có những bệnh nhân Parkison , bệnh nhân bệnh tắt tiếng lâu năm và mất hết hy vọng đã hồi sinh trở lại các sinh hoạt bình thường. Hơn 20 năm nay, kể từ khi sáng lập Viện The Parkinson and Movement Disorder ở Fountain Valley, California, bàn tay tài hoa của vị bác sĩ đã đem lại cuộc sống bình thường cho hàng ngàn bệnh nhân Parkinson và các bệnh về thần kinh nan y khác, như bệnh tắt tiếng (người bệnh tự nhiên mất khả năng nói). Bệnh nhân của ông đến từ khắp nơi trên đất Mỹ và thế giới. Có những khi bệnh nhân ở xa phải đặt lịch trước cả nửa năm mới gặp được danh y. Trăn trở muốn giúp đỡ nhiều hơn cho bệnh nhân ở xa, từ năm 2005, ông đã sử dụng Internet, qua skype để chẩn bệnh và điều trị cho họ. “Chỉ những những bệnh nhân nào ở xa cần can thiệp bằng phẫu thuật đặt điện cực trong não mới phải đến trực tiếp” – Bác sĩ Daniel nói. Vì thế, ông giúp được cho nhiều người người hơn, trong đó có cả các bệnh nhân ở Việt Nam. Thành danh trên đất Mỹ nhưng trong trái tim ông, Việt Nam vẫn luôn rất gần. Ông trở về Việt Nam từ những ngày đầu tiên sau Đổi mới và đã đưa một số chương trình đào tạo quốc tế về Việt Nam: “Nếu mời một vài bác sĩ sang Mỹ học, cũng rất tốn kém nhưng khi về, một mình họ không đủ sức làm thay đổi cả một lối làm việc. Tôi muốn có càng nhiều bác sĩ ở Việt Nam được gặp gỡ, học hỏi từ các chuyên gia thần kinh hàng đầu thế giới. Vì thế, tôi trở về Việt Nam để tổ chức các Hội nghị và các khóa huấn luyện”. Dự định của ông đã thành hiện thực, khi ông cộng tác với Hội thần kinh thế giới trong vai trò là thành viên Ủy ban Xuất bản (Publication Committee) năm 2002. Với nhiệm vụ phát triển tạp chí Thần kinh quốc tế, ông đã có nhiều đóng góp vào hoạt động của Hội từ thời gian đó. Cũng từ đây, ông có cơ hội kết nối và tổ chức thành công một Hội nghị Y khoa quốc tế đầu tiên tại Việt Nam. Bác sĩ Daniel đã mời các giáo sư quốc tế tới TP Hồ Chí Minh huấn luyện cho bác sĩ Việt Nam. Công việc đó không chỉ được duy trì tại Việt Nam nhiều năm qua mà trong quá trình làm việc, ông đã phát triển chương trình để đưa đến nhiều quốc gia đang phát triển khác. “Các nước đang phát triển cần tiếp cận với những phương pháp tiên tiến nhất trên thế giới” – Bác sĩ Daniel nói. Ông đã đưa những chương trình tập huấn, hội thảo tới hàng loạt nước như Mông Cổ, Indonesia, Uzbekistan and Kazakhstan, Ấn Độ, Pakistan. Lịch trình của bác sĩ Daniel luôn bận rộn, khi thì thuyết giảng ở Đức, Ý, Tây Ban Nha, lúc thì tập huấn ở Nga, Uzbekistan bên cạnh những ca chữa bệnh đặt trước tại bệnh viện nơi ông đang làm việc.. Với những chương trình giúp đỡ của ông cho các quốc gia, ông đã được nhiều nước như Nga, Ấn Độ, Pakistan… phong Giáo sư danh dự.
Ông được phong giáo sư danh dự ở nhiều quốc gia Khi tôi hỏi ông đã được phong giáo sư danh dự ở những quốc gia nào, vị bác sĩ ngẩn người: “Ồ, chị hỏi bất ngờ, tôi không nhớ rõ lắm. Mới đây nhất thì là Đại học Y khoa Kazakh”. “Tôi biết trường Đại học Y TP Hồ Chí Minh cũng đang chuẩn bị các thủ tục để phong Giáo sư danh dự cho ông?” – “Việc này thì chị phải hỏi họ chứ (cười), tôi không rõ các thủ tục đâu. Thường họ sẽ sắp xếp và chỉ khi trao bằng danh dự, họ sẽ mời tôi đến. Nhiều khi tôi cũng bất ngờ, ví như sau Hội nghị tháng 9 vừa rồi ở Kazakhstan, tôi bỗng được mời lên bục danh dự nhận bằng. Điều tôi vui là có thể hỗ trợ cho các đồng nghiệp ở các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam quê hương”. Ở tuổi 67 nhưng sức làm việc của ông thật phi thường. Trên 140 ngàn dặm bay mỗi năm dành cho các chương trình giảng dạy ở nước ngoài, chưa kể công việc ở Viện thần kinh nơi ông đang làm việc. Đến nay, ngoài hơn 150 bài viết cho tạp chí y khoa Peer Review, bác sĩ Daniel Trương còn là tác giả của bảy cuốn sách quan trọng viết cho các bác sĩ chuyên môn ngành thần kinh và tâm thần. Các cuốn sách trên đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác như Pháp, Nga, Trung Hoa, Tây Ban Nha, Thái Lan và Việt Nam. Ông đã và đang là thành viên Hội đồng biên tập của 4 tạp chí Thần kinh hàng đầu thế giới như Journal of Neural Transmission (2006-2008), Journal of Parkinsonism and Related Disorders (2005-2013), board, Journal of Neurological Sciences (2006-2013), Future Neurology (2007- tới nay), World Neurology (2003- 2013)…và là biên tập viên của nhiều tạp chí thần kinh thế giới khác. Tiếng nói có thẩm quyền của ông sẽ quyết định thông tin nào của các nhà nghiên cứu chuyên môn là đáng được đăng tải. Về BS Daniel Dũng Trương Đêm định mệnh. “17 tuổi (1967 – NV), tôi đã muốn thoát ly gia đình. Sau khi đậu tú tài toàn phần với tấm bằng loại ưu và được suất học bổng du học, tôi lấy chiếc compa mở hết cỡ, đặt trên tấm bản đồ thế giới, lấy tâm điểm là Việt Nam rồi xoay một vòng đến chỗ nào xa nhất mà tôi tin rằng mình ít biết đến nhất thì tôi chọn. Cuối cùng, tôi chọn nước Đức mặc dù lúc đó, tôi chỉ nói ngọng nghịu vài câu tiếng Đức”, bác sĩ Daniel Dũng Trương thành thật. Giấc mơ của chàng trai Việt mang tên Trương Dũng là đến Đức học tập để trở thành một kỹ sư điện tử nhưng như là tiền định, một cuốn sách viết về một bác sĩ kỳ diệu của tác giả Cronin mà anh đọc ngốn ngấu một đêm cho quên đi nỗi nhớ nhà đã làm thay đổi định hướng của anh. Sau đêm đó, Trương Dũng quyết định bỏ ngành điện tử để thi vào ngành y khoa.. “Đó là cái đêm định mệnh của cuộc đời tôi”. Ở Đức, y khoa là một ngành học rất khó và những ai muốn thi vào Đại học Y khoa cũng phải qua những cửa ải gian khổ. Trương Dũng thi đại và đỗ. Sau 5 năm rưỡi mài mòn đũng quần ở trường y khoa, chàng sinh viên Việt đã tốt nghiệp. Đó là cũng một kỳ tích. Tấm bằng Đại học Y khoa mà anh lấy được sớm hơn các bạn cùng khóa đến 2 năm. Sau một thời gian, chàng bác sĩ trẻ quyết định sang Mỹ để học thêm chuyên ngành thần kinh học tại trường Đại học South Carolina. Ý chí mãnh liệt. Với 2 tấm bằng tốt nghiệp y khoa, bác sĩ Trương Dũng hăm hở đi tìm việc. Anh đến bệnh viện của một vị giáo sư cao niên và nổi tiếng nhất ở Mỹ lúc đó. Giáp mặt bác sĩ trẻ người Việt nhỏ thó, ông giáo sư người Mỹ nhìn Trương Dũng từ đầu xuống chân và lắc đầu, khoát tay. “Lúc đó, tôi đã đứng như trời trồng. Dường như tôi nghe cái gì đó đắng chát ở cổ họng. Rồi tôi cũng nhìn chằm chằm từ đầu đến chân ông giáo sư. Tôi thấy mình là người Việt thì cũng đủ các ngũ quan như ông ta. Tôi có kiến thức chuyên môn hẳn hoi và khát khao được làm việc. Vậy thì tại sao tôi không được nhận?”. Không nản lòng, ngày hôm sau Trương Dũng lại đến. Lần này thì ông giáo sư “tiễn” anh ra khỏi khoa và còn nói với theo một câu: “Tôi rất nhiều việc. Cậu đừng đến làm phiền nữa nhé!”. Trương Dũng lại lầm lũi lê bước chân nặng nề về căn phòng ở trọ. Như vậy cũng không “ép phê” gì so với quyết tâm cháy bỏng của chàng trai trẻ. Và lần thứ 3, anh lại đến. Oái oăm hơn, người đàn ông khó tính này lại “lịch sự” tiễn Trương Dũng ra tận cổng bệnh viện và phũ phàng buông một câu: “Khu vực này trời tối anh nên về đi. Hy vọng đây là lần cuối tôi gặp anh!”. “Lần cuối. Tôi nghe câu nói đó giống như cánh cửa bệnh viện này đã đóng sầm lại rồi. Một suy nghĩ loáng qua đầu tôi, không lẽ cánh cửa trái tim ông ấy cũng khóa nốt với tôi. Và tôi đã lập tức quay lại. Tôi nói với ông ta là tôi sẽ làm không công. Vị giáo sư ngạc nhiên và gọi điện cho thầy tôi. Ông nghĩ rằng định mệnh của tôi đúng là ngành thần kinh. Thế là vị giáo sư mềm lòng”. Bác sĩ Daniel Dũng Trương bồi hồi kể. Lòng say mê học hỏi và năng lực thật sự của Trương Dũng khiến vị bác sĩ tài năng và khó tính này cũng phải kiêng nể. Bí quyết thành công, theo bác sĩ Daniel Dũng Trương là phải biết đấu tranh quyết liệt và kiên trì đến phút chót: “Ở các trường đại học ở Mỹ, người ta coi bạn mình cũng là đối thủ. Những ai muốn tiến bộ thì phải tìm cách vượt qua đối thủ. Tôi đấu tranh ngay với cả thầy của mình. Tôi không sợ trù dập. Trong xã hội Mỹ, mình phải sẵn sàng đương đầu khi phải đương đầu với bất kỳ ai.. Người ta cũng cảm thấy chuyện đó là bình thường, là cần thiết. Sau này, trong nghiên cứu sự cạnh tranh còn khắc nghiệt hơn”. Vị cứu tinh của nhiều người. Danh tiếng về khả năng chữa bệnh Parkinson và các bệnh rối loạn cử động của bác sĩ Daniel Dũng Trương được biết đến không chỉ ở Mỹ mà truyền đi khắp thế giới. Ông đã mang lại giọng nói bình thường cho nhiều phát thanh viên, diễn viên tại Mỹ khi họ mắc chứng bệnh này. Có hơn 15.000 người trên thế giới là bệnh nhân của vị bác sĩ gốc Việt này. Trong đó có những người rất nổi tiếng như ngôi sao điện ảnh, chính khách. Khâm phục tài năng và đức độ của ông có một bệnh nhân đã sẵn sàng tặng ông 1 triệu USD hoặc Giám đốc nhân sự của cựu Tổng thống Bill Clinton khi Bill Clinton còn là Thống đốc bang Arkansas thì đề nghị tặng bộ óc sau khi qua đời để bác sĩ Daniel Dũng Trương dùng trong nghiên cứu. Trong các bài báo tiếng Anh viết về người bác sĩ biết làm phép lạ này đã ghi lại những câu chuyện hết sức xúc động. Deadmond là một bệnh nhân điển hình của vị bác sĩ gốc Việt này. Một hôm cô thức dậy và cứ ngỡ rằng mình bị viêm thanh quản. Ai ngờ chứng bệnh kéo dài suốt 7 năm. Tình trạng của Deadmon ngày càng trầm trọng hơn đến nỗi cô không thể ăn. Ngay chuyện trả lời điện thoại cô cũng không còn làm được. Khi đến phòng mạch bác sĩ Trương, cô Deadmon thổ lộ: “Ông ấy là hy vọng cuối cùng”. Và đúng là như vậy, bác sĩ Trương đã chữa khỏi cho cô gái. Susan Becraft, một bệnh nhân khác của bác sĩ nói: “Đối với chúng tôi, ông ấy là một siêu anh hùng”. Bác sĩ Trương đã chữa lành cho Becraft chứng cứng cơ đòn gánh, một rối loạn vận động ở cổ. Còn Barbara Rood nhờ bác sĩ Trương mà sau hai năm đã lấy được giọng nói đã mất, phát biểu: “Tôi tưởng tượng như mình trồi lên từ đêm đen, như người mù được sáng mắt”. Trong vài lần về Việt Nam với thời gian ngắn ngủi, bác sĩ Daniel Dũng Trương đã dành từng giây, từng phút để điều trị cho nhiều người mắc chứng bệnh Parkinson trầm trọng mà hầu như trong nước, họ không có cơ may chữa khỏi. Vị bác sĩ tài giỏi này còn có một cách chữa bệnh “từ xa” rất đặc biệt thông qua sự điện thoại, e-mail, webcam để theo dõi bệnh nhân. Điển hình là NSND Thanh An mắc chứng Parkinson rất lâu đã được ông chữa bệnh qua webcam và bệnh tình đã thuyên giảm. Nhà khoa học lớn và trái tim nhân hậu. Bác sĩ Daniel Dũng Trương được coi là người đầu tiên chứng minh có thể sử dụng chất botox để chữa bệnh tắt tiếng. Cùng với người thầy của mình là bác sĩ Tenny Fox – cựu Chủ tịch Hội Thần kinh Hoa Kỳ, ông đã dành trọn 17 năm miệt mài nghiên cứu để tìm ra phương pháp dùng botox điều trị bệnh tắt tiếng một cách hiệu quả nhất. Tên tuổi của ông còn gắn liền với bảng phân loại về các bệnh cử động học. Vị bác sĩ gốc Việt này từng làm chủ tọa nhiều hội nghị ngành thần kinh tầm cỡ quốc tế với sự tham gia của hàng ngàn nhà khoa học. Ông đồng chủ biên 4 tờ báo y khoa hàng đầu thế giới và biên tập cho 20 tạp chí y khoa khác. Riêng các bác sĩ chuyên ngành thần kinh ở Việt Nam không thể không “gối đầu giường” cuốn Thần kinh học lâm sàng do BS Daniel Dũng Trương và đồng nghiệp viết. Hàng trăm báo cáo về bệnh thần kinh của ông đã được đồng nghiệp tham khảo và thán phục. Mới đây, ông được bầu vào chức Chủ nhiệm Tiểu ban đào tạo cho những nước đang phát triển của Hội Thần kinh quốc tế. Năm 1991, ông được mời chủ tọa cuộc họp thường niên của Hội Thần kinh Hoa Kỳ. Cuốn sách Vẻ vang dân Việt chọn ông là 1 trong 2 nhân vật tiêu biểu của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, trung bình mỗi năm ông đi thuyết trình tại 10 nước. Nổi tiếng khắp thế giới và được đồng nghiệp nghiêng mình kính nể nhưng ở nước Mỹ xa xôi, vị bác sĩ tài hoa này vẫn đau đáu hướng về cội nguồn. Nhiều bệnh nhân người Việt có hoàn cảnh khó khăn được ông tặng thuốc để chữa trị mặc dù có những loại thuốc rất đắt. Ông đang ôm ấp một dự định là xây dựng một bệnh viện thần kinh hiện đại tại Việt Nam để chữa trị cho đồng bào của mình. Sát cánh bên bác sĩ là người vợ giỏi giang hiện đang là giám đốc một đài truyền hình tại Mỹ kiêm thành viên ban giám sát ở Trung tâm Orange Coast Memorisl Medical. Bà thường xuyên vận động để phụ nữ Việt kiều tham gia vào xã hội nhiều hơn và tận dụng được nhiều các cơ hội quanh họ. Bên cạnh đó, bà cũng giúp họ duy trì mối liên hệ với cội nguồn đất Việt vì cho rằng nếu không quan tâm, thế hệ thứ hai, thứ ba của cộng đồng Việt sẽ rời xa dần những truyền thống. Nhiều người Việt còn biết đến người vợ của vị bác sĩ nổi tiếng này trong vai trò thành viên ban hòa tấu Pacific Symphony Orchestra và Tổ chức âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Họ cùng sống, làm việc và giúp người khác bằng đôi tay lương y tài hoa và tinh thần độc lập đầy nhân bản.
Đông Minh
|
|
Tên Việt kiều phản động
Guest
|
Post by Tên Việt kiều phản động on May 22, 2019 11:54:25 GMT -6
Tên Việt kiều phản động (Internet)
5/21/19 Ngồi trên chuyến bay từ Mã lai về Đức. Trong chuyến bay, ngồi chung hàng ghế với một cán bộ CS. Ông ta tự giới thiệu là cán bộ đi công tác.“ Vì là người Việt Nam, và tánh tôi hay thích tìm hiểu nên mới trò chuyện.
Trông điệu bộ ông cán này tỏ ra là người có hiểu biết trong xã hội chủ nghĩa cs. Hay xưng bác và tôi. Bác đi du lịch đó hả, bác làm cơ quan nào? Tôi trả lời không , tôi đi thăm người thân ở Úc, máy bay ghé qua Mã Lai rồi về Đức, tôi hiện nay sống ở Đức. Ông ta nói. À thế bác là Việt kiều. Tôi nhanh miệng nói. Vâng Việt kiều yêu nước, để coi ông ta nói gì. ( Việt kiều yêu nước là những người sống ở nước ngoài nhưng làm tay sai cho cs) Ông ấy nói thì ra không phải là Việt kiều phản động. Tôi cười và nói, Việt kiều phản động là sao vậy ông? Ông ta trả lời bác có biết họ là một lũ ngụy đánh thuê cho thằng Mỹ, bị quân dân ta đánh một trận sấm sét cho Mỹ chạy ngụy nhào, rồi bỏ chạy ra nước ngoài, quay lại đánh phá nhà nước ta. Tôi chỉ nói, họ có đánh gì đâu, súng ống đâu mà đánh? Ấy bác không biết, súng ống làm gì mà đánh lại quân dân anh hùng ta. Chúng đánh phá là hô hào, viết và nói xấu đảng ta trên Internet đó.
Tôi nói họ nói đúng thì đảng phải biết sửa chữa chứ. Tôi có đọc, thấy họ nói cán bộ đảng viên hiện nay ăn hối lộ, họ nói đúng, thì thế nào là phản động? Họ nói miền bắc nghèo đói, miền nam giầu sang, vào miền nam ăn cướp mà gọi là giải phóng. Tôi nghĩ cái đảng csvn chỉ vì qúa ngu lại thích làm anh hùng, thích chiến thắng, nên đã đánh mất đi một cơ hội lớn để xây dựng Nước Việt Nam sau chiến tranh do hiệp định đình chiến ký tại Paris. Là xây dựng và tái thiết Việt Nam sau chiến tranh tàn phá. Đảng có nói cho ông biết không? Ông ta nhìn tôi có vẻ tức tối và nói bác láo thật, nếu bác nói là đảng ta ngu, thì tất cả trí thức và nhân dân miền nam còn ngu hơn đảng. Tại sao họ nghe theo đảng, và cùng với đảng đứng lên để giải phóng miền nam. Những người trí thức như BS Dương Huỳnh Hoa, Bs Huỳnh Tấn Mẫn v...v... Tôi nói họ không phải là những người Trí Thức. Ông lầm rồi. Họ là những người khoa bảng. Ông ta hỏi khoa bảng là gì? Tôi trả lời là những người có bằng cấp cao. Ông nói thì bằng cấp cao là người trí thức. Tôi nói không. Người Trí Thức phải có hội đủ 3 điều kiện ắt có và đủ để trở thành người Trí thức là Bằng cấp cao và kiến thức sâu rộng cùng với Đạo đức tốt. Có đủ 3 điều kiện này mới trở thành người Trí Thức. Ông ta hỏi kiến thức là cái gì? Tôi cười và nói là người thấy sâu hiểu rộng, người từng trải trong cuộc sống, đi đó đây để tự học hỏi và tìm hiểu tra cứu, tự tìm hiểu về khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội, Nghệ thuật v...v... Bác nói lung tung qúa, người có bằng cấp cao là họ biết hết tất cả. Tôi nói ông lầm rồi. Họ học cái nghành nghề của họ mà thôi, để có bằng cấp đi làm. Nếu họ về hưu thì bằng cấp ấy cũng hết gía trị. Tôi mới chứng minh cho ông ấy biết là : Nếu người có bằng cấp cao mà không có kiến thức và Đạo đức. Thì ông biết người đó như thế nào không? Người đó hay tự phụ, và tự cao và coi ta đây là người học cao, nếu có quyền chức thì xem những người khác không ra gì. Thích thị uy và đánh đập người khác, ăn hối lộ. Ám hại người nếu chống lại. Còn người có bằng cấp cao, mà lại có kiến thức rộng mà không có Đạo đức. Loại này ỉ vào mình học cao hiểu rộng , nên rất khôn khéo biết luồn lách pháp luật để làm những điều gian ác. Nếu có chức phận quyền hành thì xảo quyệt, lưu manh, hại người. Còn loạn người có bằng cấp cao, có Đạo đức tốt mà không có kiến thức sâu rộng. Là những người hay bị kẻ khác dụ dổ như. Bs Huỳnh Tân Mẫn, Bs Dương Huỳnh Hoa v..v... Vì thiếu kiến thức rộng nên không phân biệt được đâu là tà, đâu là đúng và đâu là sai. Còn một loại này nữa. Là người không bằng cấp, không đạo đức chỉ có kiến thức nhưng không cao, không sâu, và không rộng. Thứ này rất nguy hiểm. Là hồ chí minh., khôn vặt, lém, láo cá. xảo quyệt. Ông ta không nghe nữa, bỏ đi chỗ khác, tìm chỗ có ghế trống ngồi. Sau khi nghe người tiếp viên nói đã tới Đức, xin đừng tháo giây an toàn chờ máy bay ngừng hẳn...... Rồi mới thấy ông ấy tới lấy hành lý và thòng theo một câu. Nếu mà mày ở Việt Nam tao sẽ cho mày nhừ xương, và ở tù không có ngày ra. Thằng Việt kiều phản động.
Nguyễn Sơn Germany
|
|
|
Post by Nguồn: VnFirst on Jun 10, 2019 15:31:24 GMT -6
Lại một nổi nhục của người Việt trên đất Mỹ
Thật là chấn động khi Luật Sư Nguyễn Lê Thiên Trang đã bị bắt vì liên quan làm hồ sơ kết hôn giả. Hôm nay Luật Sư Thiên Trang ở Houston và 50 người khác đã bị bắt và mang ra tòa vì họ hoạt động một đường dây kết hôn giả đưa người từ Việt Nam vào Mỹ. Đường giây này có 96 người bị truy tố. Theo tin của chính quyền địa phương thành phố Houston. Cô Ashley Yến Nguyễn là một trong 50 người bị bắt, cô ta là người cầm đầu đường dây . Cô Yến Nguyễn đi tuyển mộ người có quốc tịch Mỹ rồi đưa họ về Việt Nam gặp người muốn đi qua Mỹ theo diện kết hôn giá làm giấy tờ và thu tiền lệ phí cho mỗi hồ sơ lên đến $70,000 rồi kết hợp với luật sư Trang làm hồ sơ kết hôn giả đưa họ qua Mỹ. Số đông những người đi diện kết hôn giả là người phải có tiền thì phần đông họ là vợ con cán bộ. Đường dây này đã đưa rất nhiều gia đình cán bộ cộng sản vào Mỹ. Đường dây hoạt động có 96 người trong một thời gian dài đã bị FBI theo dỏi và bắt được 50 người trong đó có luật sư Thiên Trang. Hôm nay họ bị ra tòa lần đầu tiên. Nếu bị kết án họ có thế bị tù 20 năm. Đường dây này đã bị bể, FBI sẽ điều tra tất cả hồ sơ của ai đã nhờ luật sư này làm, trong đó có rất nhiều hồ sơ của cán bộ cộng sản. Nếu FBI tìm ra, những người kết hôn giả sẽ bị trục xuất. Hàng trăm người đang ngồi trên đọt tre. Hu hu !! Luật sư Thiên Trang là một khuôn mặt quen thuộc với cộng đồng người Việt Houston. Cô ta hay lên đài phát thanh nói chuyện và giảng dạy luật Pháp đạo lý trên đài. Cô ta là một du học sinh qua Mỹ du học và lấy chồng rồi ở lại Mỹ. Là thành phần du học sinh đem văn hóa dối trá, gian xảo, lọc lừa, ma mảnh của cộng sản qua đây lừa dối chính phủ Mỹ để làm giàu bất chính. Cô ta đã làm hoen ố hình ảnh cao đẹp của người Việt tỵ nạn tìm Tự Do. Hôm nay nhiều báo chí Mỹ đăng tải sự kiện gian lận của văn phòng luật sư Trang làm rúng động cả thành phố Houston, làm cho người Việt phải xấu hổ với người dân bản xứ. Người có học, có tiền, có danh vọng mà có lòng tham lam, gian dối, lưu manh, mất dạy của bọn du học sinh đã làm cho người Việt tỵ nạn cộng sản phải xấu lây. Nguồn Pearland.com
|
|
|
Post by Cafe Net on Jun 27, 2019 12:16:23 GMT -6
TRUNG CỌNG, SẼ LÀ CON CỜ THỨ 2 CỦA CỘNG ĐỒNG MỸ GỐC DO THÁI
Tác giả: Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh Nguồn: THNT Ngày đăng: 2019-06-26
1.- Cộng Đồng Giàu Nhất Thế giới Cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái có khoảng từ 5,3 đến 8,4 triệu người gồm 3 nhóm, lớn nhất là nhóm Ashkenazi, chiếm đến 90% dân số cộng đồng, hai nhóm khác là Sephardic và Mizrahi. Người Do Thái xem quan trọng 3 thứ : Do Thái Giáo (Judaism), trí thức và tài sản. Do Thái Giáo đã giúp cho người Do Thái bị phiêu bạt mấy ngàn năm mà không mất gốc. Trí thức giúp cho người Do Thái vươn lên đứng đầu mọi lãnh vực của nền văn minh nhân loại (30% giải Nobel được trao cho người Do Thái). Tài sản đã làm cho người Do Thái giàu có mà đặc biệt là cộng đồng Do Thái tại Mỹ đang quản lý một số tài sản có thể ngang với từ 15 % đến 20% tài sản của nhân loại. Người Do Thái rất đoàn kết, có tổ chức và không giữ bí mật để làm lợi riêng nên khi họ quây quần thành tập thể thì họ có cơ chiếm hết mọi quyền lợi chung quanh và trở thành mối họa cho những cộng đồng bản xứ nơi họ định cư. Thế chiến thứ II, người Đức đã thấy được mối họa Do Thái nên đã diệt chủng hơn 2 triệu người Do Thái. Thảm cảnh Holocaust đã làm động tâm cả nhân loại nên các cường quốc mới dành một mảnh đất nhỏ bên bán đảo Sinai của Ai Cập để cho người Do Thái có chổ đi về, nước Israel. Cộng đồng Do Thái ở Mỹ thoát được sự tàn phá của hai trận thế chiến và không bị họa Holocaust nên họ vươn lên giàu có rất nhanh và chiếm lấy nước Mỹ và dùng nước Mỹ như một con cờ điều khiển cả thế giới. ( Helen Thomas, một phóng viên nổi tiếng và là một thành viên của cơ quan báo chí Tòa Bạch Ốc hơn 50 năm, đã bị sa thải. Về sau, bà đã đọc một diễn văn tại một hội nghị ở Detroit trong đó bà trình bày quan điểm cho rằng “Quốc Hội, Tòa Bạch Ốc, Hollywood, và Wall Street đều bị Do Thái làm chủ. Dứt khoát là thế.” (Congress, the White House, Hollywood, and Wall Street are owned by Zionists. No question in my opinion.) 2.- Mục tiêu tối hậu : Tiền Nhóm Sephardic là nhóm người Do Thái đầu tiên từ Tây Ban nha và Bồ Đào Nha di cư sang Mỹ, Đến năm 1749 đế quốc Anh làm luật cho ưu tiên người Do Thái di cư sang thuộc địa cùa Anh tại Hoa Kỳ. Năm 1880 Châu Âu đi vào khủng hoảng kinh tế nên cộng đồng Do Thái nói tiếng Yiddish thuộc nhóm Arkenazi ở các nước nghèo đói Trung Âu và Đông Âu tuôn sang Hoa Kỳ khoảng 2 triệu người. Họ làm đủ nghề thấp kém nhất để kiếm sống và nhanh chóng biến thành ông chủ trong mọi ngành. Nay điều hơi khó khăn là tìm cho ra một người Mỹ gốc Do Thái không phải là triệu phú, họ tập trung đông nhất ở mạn dưới Manhattan của New York, từ đó bàn tay Do Thái vươn ra quậy khắp thế giới với một mục đích tối hậu là để kiếm …. TIỀN. Khi phân tích tình hình thế giới đi về đâu, cái gì đang xảy ra, cái g ì sẽ xảy ra mà muốn điều phân tìch ấy sâu sắc và chính xác thì chúng ta nên nhìn vào khối tài sản của cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái hướng vào đâu để đầu tư, như thế là nên nhìn cho ra địa điểm đầu tư, hướng giải quyết sản phẩm đầu tư hay nhìn vào hướng cung và hướng cầu có thề làm cho số tiền đầu tư ấy được sinh lợi thì mới biết được mục đích của các diễn biến trên trường quốc tế. 3.- Các địa điểm đầu tư trước đây. Một số chuyên gia về đầu tư cho rằng có 3 yếu tố cần phải nghĩ đến khi bắt tay vào việc đầu tư : Yếu tố thứ nhất : Địa điểm đầu tư (Location) Yếu tố thứ hai : Cũng là địa điểm đầu tư Yếu tố thứ ba : và cũng là địa điểm đầu tư Địa điểm đầu tư của tập đoàn tư bản Do Thái tại Hoa Kỳ lẽ dĩ nhiên là nước Hoa Kỳ, là một vùng an toàn nằm ngoài nhiều xung đột của thế giới, khi đầu tư thành công thì lợi nhuận làm cho số tài chánh ngày càng tăng thì phải nghĩ đến một địa điểm đầu tư khác nằm ngoài Hoa Kỳ, để cho số tài chánh thặng dư sinh thêm lợi nhuận. Sau thế chiến thứ II địa điểm đầu tư ngoài nước Hoa Kỳ mà tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái chọn là 2 nước Đức và Nhật, bởi hai nước này là hai nước hoang tàn đổ nát, các cơ sở sản xuất vẫn có mà công nhân thì đang chết đói đang cần những bị bạc của những nhà tư bản Do Thái vực dậy để sản xuất ra những sản phẩm rẽ mạt bán khắp năm châu. Sau hơn 20 năm thâu lợi nhuận hã hê, một người Nhật hay người Đức làm ra một đồng thì phải chia cho người Do thái ở Mỹ một ít, tập đoàn tư bản Do Thái rút tiền đầu tư từ hai nước này về vì họ nhìn ra một địa điểm đầu tư khác hấp dẫn hơn, nước Trung Quốc. Nước này đang bị đại loạn của Hồng Vệ Binh, anh Mao Xếng Xáng giết các đồng chí của anh ta nên gây ra thảm cảnh 36 triệu người chết… vì đói. Các cơ sở sản xuất tiêu điều mà công nhân hơn 1 tỷ người đang thất nghiệp. Tập đoàn tư bản Do Thái ở Mỹ rót tiền vào đâu tư làm ra những sản phẩm rẽ mạt ” Made in China” bán ra toàn thế giới. 4.- Khủng hoảng địa điểm đầu tư : Để giải quyết những sản phẩm quân sự làm ra tại địa điểm đầu tư ở Hoa Kỳ, tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái đã đem quân Mỹ gây bất ổn khắp Trung Đông khiến cho các ông vua dầu lửa phải chạy đua vũ trang hay nói cách khác đem tiền bán dầu đưa cho tập đoàn tư bản Do Thái để đổi lấy những đoàn tàu bay tàu bò giết nhau cho bỏ ghét. Chính sách này gây cho nước Mỹ bị thù ghét khắp Trung Đông. Vụ đánh sập Tòa Tháp Đôi năm 2001 ở New York đã làm cho những tập đoàn tư bản Do Thái giật mình hoảng sợ và điều đầu tiên mà bất cứ anh nhà giàu nào khi lo sợ cũng phải làm là lo giữ của. Sau một thời gian dài hơn 20 năm thâu lợi nhuận nhờ đầu tư vào đúng địa điểm, một nước Trung Cọng nghèo đói tan hoang. Tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái tính toán không thể kiếm thêm lợi nhuận hơn nửa vì chi phí đầu tư quá cao và sẳn dịp Tòa Tháp Đôi bị đánh sụp nên họ đồng loạt rút tiền về nước rồi đem cho vay dễ dàng, tắt trách mới sinh ra cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Hoa Kỳ vào năm 2008. Hiện nay số tài sản kết sù này đang đưa nền kinh tế Hoa Kỳ qua cơn suy thoái, đang chê Châu Âu già cổi nên khó kiếm ra tiền, Châu Phi hoảng loạn không an toàn để đầu tư, Trung Đông nguy hiểm lắm kẻ thủ vừa mất tiền đầu tư vừa mất mạng. Khối tài sản kết sù này đang nhắm nhé hướng về Châu Á Thái Bình Dương, một vùng năng động chưa khai phá hết, để đầu tư nên nước Mỹ mới lập nên có hiệp định TPP làm nòng cốt, và chính quyền Hoa Kỳ xoay trục sang Châu Á để bảo vệ vùng đầu tư. Nhưng các quỉ đầu tư của các tập đoàn tư bản Do Thái chưa chuyển động, phải chăng họ đang mưu tạo ra một địa điểm đầu tư lý tưởng ở Châu Á như Đức và Nhật sau thế chiến thứ II ? 5. Mưu tạo địa điểm đầu tư mới Nay chúng ta thấy tình hình Châu Á có những biến chuyển như sau : Trung Cọng gây bất ổn ở Biển Hoa Đông và Biển Đông. Siêu quyền lực Bilderberg club họp ngày 6/6/2014 tại Watford ở Anh Quốc lên kế hoạch chia Trung Cọng thành 5 nước nhỏ. Trung Cọng bồi đắp các đảo nhân tạo để núng ra ở Biển Đông. Các nước Đông Nam Á lo sợ chạy đua vũ trang. Hoa Kỳ đè dặt tuần tra Biển Đông v.v… Mấy hôm nay người viết bài này đọc được bản tin như sau : Ông Obama đã cảnh cáo quan chức Trung Quốc: Nếu quý quốc dám gây chiến tranh với Philippines, Việt Nam, Nhật Bản, tôi chỉ cần nói ra 6 điều là Trung Quốc tan vỡ, không phải sử dụng đến dù chỉ một người lính. 1. Công bố tài khoản nước ngoài của quan chức Trung Quốc và cho đóng băng. 2. Công bố danh sách quan chức Trung Quốc có hộ chiếu Mỹ. 3. Công bố danh sách người nhà các quan chức cấp cao Trung Quốc định cư tại Mỹ. 4. Ra lệnh thanh tra biệt thự và tình nhân của quan chức Trung Quốc ở Los Angeles. 5. Đưa người nhà quan chức Trung Quốc đang sống tại Mỹ đến nhà tù nổi tiếng của Mỹ ở Guantanamo (Cuba). (!)** 6. Tiếp tế vũ khí cho công nhân thất nghiệp ở Trung Quốc (có lẽ chỉ cần áp dụng điều thứ 6 này là đủ). Người viết nghĩ : Đây là lời đe dọa thứ hai nhắm vào Trung Cọng sau khi đe dọa lên kế hoạch chia Trung Cọng thành 5 nước nhỏ. Đe dọa có nghĩa là anh phải thực hiện những thỏa thuận đã đề ra. Nếu anh không thực hiện những thỏa thuận đã đề ra thì tôi sẽ thực hiện những thứ sau đây …. làm anh thiệt hại. Vậy những thỏa thuận đã đề ra là những thỏa thuận gì ? Những thỏa thuận đã đề ra thường thuộc loại TOP SECRET nên không ai biết được. Giống như thỏa thuận bán đứng MNVN giữa tên Do Thái Henry Kissinger và thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Cọng phải 30 năm sau mới lòi ra. Người viết xin đoán mò : Thỏa thuận 1 : Làm bất ổn để Châu Á chạy đua vũ trang cho tập đoàn tư bản Do Thái ở Mỹ bán vũ khí kiếm tiền (đã và đang thi hành) Thỏa thuận 2 : Gây chiến tranh phá nát vùng Đông Nam Á để tạo một địa điểm đầu tư lý tưởng cho tập đoàn tư bản Do Thái ở Mỹ bỏ tiền vào đầu tư ( chưa thực hiện ). Người viết xin bình luận thỏa thuận 2 : Tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái và chính quyền Hoa Kỳ tuy hai mà một tuy một mà hai. Trung Cọng muốn độc hiếm Biển Đông thì phải đánh chiếm trọn Đông Nam Á mới thành công. Đánh chiếm Đông Nam Á lại là cơ hội cho các cường quốc xâu xé nước Trung Hoa thêm một lần nửa. Tiến thoái lưỡng nan đang làm cho anh Đại Hán tham ăn ngồi trên đống lửa. Nostradamus tiên tri thế chiến thứ III xảy ra do AntiChrist điều khiển. Các thầy bàn Phương Tây đang đi tìm AntiChrist là ai. Họ quên rằng Nostradamus không nói AntiChrist là cá nhân hay tập đoàn. Nếu là tập đoàn thì chuyện tìm ra AntiChrist thì cũng dễ thôi.
Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
|
|
|
Post by Net news on Jul 9, 2019 13:45:04 GMT -6
CỘNG SẢN VIỆT NAM RƠI MẶT NẠ
Tác giả: ĐIỆP MỸ LINH Nguồn: Việt Báo Ngày đăng: 2019-07-09
Như thường lệ, sau khi dùng điểm tâm, tôi đọc tin trên Yahoo, CNN, VOA tiếng Việt, BBC tiếng Việt và Tin Thời Tiết rồi vào mailbox đọc emails của bạn hữu và báo Việt Nam. Hôm nay, nhận được bản tin của báo Người Việt, mở ra, thấy hình thủ tướng cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) Nguyễn Xuân Phúc đang tươi cười, “xum xoe” với cử chỉ nịnh bợ bên tổng thống Hoa Kỳ – Donald Trump mà tôi thường đùa, gọi là ông Xì-Trump – tôi cười lớn, cười lâu.
STRUMF Chưa bao giờ nghe tôi cười lớn, cháu nội của tôi từ dưới lầu hốt hoảng chạy lên, vừa thở vừa hỏi: “Ba Noi! Ba Noi! Are you okay?” Vì cháu còn bé, chưa hiểu biết gì, tôi chỉ trấn an, cảm ơn cháu và bảo cháu trở xuống bếp, ăn cho xong bữa ăn sáng. Còn lại một mình, nhìn vào tấm hình thủ tướng c.s.V.N. Nguyễn Xuân Phúc tỏ thái độ ve vuốt, nịnh bợ ông Xì-Trump – trong khi ông Xì-Trump khoanh tay, bặm môi, nét mặt trông rất hách – tôi không cười được nữa mà tôi lại cảm thấy nhục và tội nghiệp cho những người lãnh đạo, đảng và người c.s.V.N.! Không nhục sao được khi mà suốt hơn nửa tế kỷ qua đảng và người c.s.V.N. cứ hoang tưởng, “tự sướng”, khoe ầm lên rằng đảng và người c.s.V.N. đã thắng hai đế quốc sừng sỏ là Pháp và Mỹ; thế mà bây giờ ông Xì-Trump – Tổng Tư Lệnh một quân đội tinh nhuệ nhất hành tinh mà lúc nào đảng và người c.s.V.N. cũng kết tội là “đế quốc” Mỹ – chỉ nói lên sự thật: “Việt Nam gần như là kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất” để lên án c.s.V.N. về việc Việt Nam giúp Trung cộng trong vấn đề mậu dịch không sòng phẳn, không ngay thật thì thủ tướng c.s.V.N. Nguyễn Xuân Phúc vội khúm núm đến như thế! Sống tại miền Nam Việt Nam, từ ngày đủ hiễu biết, chưa bao giờ tôi thấy bất cứ một nhân vật nào trong nội các của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.) tỏ thái độ “khúm na khúm núm” đối với bất cứ vị lãnh đạo của một quốc gia nào cả. Ngược lại, nhân vật lãnh đạo – nhất là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc – cũng như đảng và người c.s.V.N. chỉ biết “chụp lấy thời cơ” chứ không biết thể hiện tư cách của một chính trị gia! Thật vậy! Lúc nào xuất hiện trong vài sự kiện quan trọng trên chính trường quốc tế, thủ tướng c.s.V.N. Nguyễn Xuân Phúc cũng làm trò cười cho mọi người trên thế giới! Riêng người Việt Nam thì cảm thấy bị “quê”; vì có ông thủ tướng gì mà thiếu lịch sự và kém xã giao – quạt ‘phành phạch” trong buổi hòa nhạc giao hưởng tại Đức – và không hiểu được “tiếng Anh thông dụng”, sau cuộc họp thượng đỉnh ASEAN-US tại Vientiane, 08/09/16. Hôm đó, trước khi các vị lãnh đạo từ giã nhau, ai cũng nắm tay nhau tỏ dấu đoàn kết thì thủ tướng c.s.V.N. Nguyễn Xuân Phúc lại đưa tay vẫy chào!
Bây giờ, hình ảnh thủ tướng c.s.V.N. Nguyễn Xuân Phúc “khúm núm” bên “kẻ thù xưa” trước bao nhiêu đôi mắt của các vị lãnh đạo trên thế giới thì tôi và gia đình tôi lại cảm thấy nhục và tự ái dân tộc bị tổn thương – dù rằng ông Nguyễn Xuân Phúc chỉ là thủ tướng của c.s.V.N. chứ không phải là thủ tướng của chúng tôi – vì hành động thiếu tự trọng của ông Phúc. Viết đến đây tôi …giật mình, chợt nhớ rằng người c.s.V.N. làm gì có lòng tự trọng mà thể hiện! Một người có lòng tự trong là một người lương thiện, biết giữ lời hứa, giữ sự cam kết, giữ sĩ diện của mình – dù trong hoàn cảnh riêng tư hay là giữa “bàng quân thiên hạ”. Muốn biết người c.s.V.N. có lương thiện hay không, kính mời độc giả đọc vài đoạn trong bản tin đài VOA của tác giả Phạm Chí Dũng, July/01/19. Theo bản tin này thì: “…chỉ ít tháng sau khi nhậm chức, Tổng Thống Donald Trump đã giương cao ngọn cờ ‘công bằng và đối ứng’, một đòn thương mại liệt Việt Nam vào danh sách 16 quốc gia ‘gây thiệt hại cho Mỹ và đòi hỏi Bộ Thương Mại và Bộ Tài Chính Mỹ phải thực thi những biện pháp quyết liệt về hàng rào thuế quan thương mại đối với hàng Việt Nam…Trong vụ tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế ‘thép Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc’ vào tháng 12 năm 2017, Bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã xác định rằng có đến 90% sản phẩm thép từ Việt Nam nhập cảng sang Mỹ xuất xứ từ Trung Quốc…” Qua đoạn tin của ông Phạm Chí Dũng, độc giả hẳn đã nhận ra ai làm tay sai cho ngoại bang; thế mà lúc nào c.s.V.N. cũng tuyên truyền một cách láo lếu rằng V.N.C.H. làm tay sai cho ngoại bang. Sở dĩ người c.s.V.N. luôn luôn láo lếu là vì ông Hồ Chí Minh, đảng và người c.s.V.N. đã áp dụng một cách triệt để và “nghiêm túc” câu nói của nhà độc tài, khát máu Adolf Hitler: “If you tell a big enough lie and tell it frequently enough, it will be believed.” Vì bản tính gian dối, lọc lừa, “sớm đánh, tối đàm”, người c.s.V.N. luôn luôn vi phạm các hiệp định ngưng chiến cho nên chính phủ, Người Lính V.N.C.H. cũng như người dân miền Nam phải gánh chịu không biết bao nhiêu hậu quả đắng cay, khóc hận, từ năm 1968 đến nay ! Thế mà, từ 1975 – dù phải “tha phương cầu thực”, vươn lên từ đau thương – chúng tôi chưa hề “khúm núm” trước bất cứ một người nào, kể cả người Mỹ. Nhờ đâu chúng tôi có được lòng tự trọng, đức tính tự tin, bản chất thành thật, trái tim biết thương yêu đồng loại? Thưa, đó là nhờ những bài đức dục, công dân giáo dục chúng tôi học được từ thời tiểu học cho đến trung học. Cũng nhờ sự giáo dục từ học đường mà xã hội V.N.C.H. có một ngăn nắp, thứ tự không do ai phân chia, kỳ thị cả. Nếu độc giả không tin tôi, kính mời xem youtubes và những hình ảnh cũ của V.N.C.H. thì sẽ rõ. Chỉ cần nhìn cách phục sức của một người, người ta có thể biết người ấy thuộc thành phần nào trong xã hội. Thật vậy! Trong xã hội V.N.C.H., học sinh, sinh viên – nam cũng như nữ – thường mặc đồng phục, rất kín đáo. Nghệ sĩ, ca sĩ, các “em ca-ve”, bán “bar” mặc y phục có vẻ “tươi mát”, hấp dẫn, lòe loẹt. Mệnh phụ, phu nhân của các vị lãnh đạo hoặc vợ sĩ quan: Y phục chững chạc, vóc dáng thướt tha, tư cách đoan trang, dịu dàng. Công chức và các vị chính khách, nam cũng như nữ, đều ăn mặc lịch duyệt, thái độ điềm đạm không thua bất cứ một chính trị gia nào trên thế giới. Còn xã hội c.s.V.N. – ngoài những hành động khó tha thứ của thủ tướng c.s.V.N. Nguyễn Xuân Phúc – mọi người còn thấy cách ăn mặc thiếu lễ độ của tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Một người giữ hai chức vụ quan trọng đến như thế mà mỗi khi xuất hiện trước công chúng ông Nguyễn Phú Trọng thường mặc áo sơ-mi ngắn tay, bỏ ngoài quần – khác màu với áo! Đây là hành động xem thường công chúng chứ không phải là thái độ bình dân. Y phục nam lãnh tụ của đảng c.s.V.N. thì có tổng bí thư kiêm chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng “đại diện” như tôi đã viết ở đoạn trên; còn phụ nữ phuc vụ trong guồng máy đầy ác tính của c.s.V.N. – nhất là chủ tịch quốc hội Nguyễn thị Kim Ngân – và phu nhân của các nhân vật cao cấp của c.s.V.N. thì như thế nào? Xin mở ngoặc ở đây: Chủ tịch quốc hội c.s.V.N. Nguyễn thị Kim Ngân – dù đã lớn lên và hấp thụ sự giáo dục của V.N.C.H. – có Bố là Việt Cộng “gốc”, lại sống trong xã hội c.s.V.N. gần nửa thế kỷ, thì bà Nguyễn thị Kim Ngân đã bị đồng hóa với người c.s.V.N. về mọi phương diện rồi; như Ông Bà mình thường bảo “Rau nào thì sâu đó!” Xin trở lại với vấn đề tư cách của các phụ nữ phục vụ cho nhà cầm quyền c.s.V.N. Sau 1975, các “nhà thiết kế y phục c.s.V.N.?” dựa theo y phục diêm dúa của Trung cộng để thay quần đen, quần trắng của phụ nữ Việt Nam thành quần màu – cho giống “chị em” của mấy “thiếm” Xẩm bên Trung cộng! Đã đành sắc đẹp là do Trời ban; nhưng các bà chính khách cũng như phu nhân các cấp lãnh đạo của c.s.V.N. không có khiếu thẩm mỹ; không biết được rằng trang điểm hoặc ăn mặc quá lố chỉ làm nổi bậc những khuyết điểm của chính các bà mà thôi! Viết đến đây tôi chợt nhớ mẫu tin trên Yahoo về cô người mẫu “tự phong” – và không ai mời cả – đã tham dự đại hội Cannes để “khoe của” Cô người mẫu “tự xưng” cũng khoe cô là nhà thiết kết thời trang (!). Là một phụ nữ Á Đông và tự xưng là nhà thiết kế thời trang (!) mà cách phục sức của cô này lại bị Yahoo – phương tiện truyền thông của một đất nước rất cởi mở trong vấn đề trang phục phụ nữ – lên án nặng nề với tựa đề bản tin như thế này: “This model could be fined for wearing an 'offensive' naked dress to Cannes.” (Người mẫu này có thể bị phạt vì mặc y phục khỏa thân 'công kích' tới Cannes. - Google translate) Xin trích một câu trong bản tin trên Yahoo để độc giả tường: “Vietnamese model, Ngoc Trinh, arrived at the 2019 red carpet screening of ‘A Hidden Life’ wearing a backless look consisting of a black thong bodysuit with a halter-neck top and black swirl embellishment, paired with a sheer black skirt at the front and back.” (Người mẫu Việt Nam, Ngọc Trinh, đã đến buổi ra mắt thảm đỏ của bộ phim 'A Hidden Life' năm 2019 với hình dáng hở lưng bao gồm một bộ đồ bó sát màu đen với cổ dây treo và viền đen, kết hợp với một chiếc váy đen trần trụi ở mặt trước và sau. Google translate)
Không hiểu lãnh đạo c.s.V.N. nghĩ như thế nào về cách phục sức lỏa lồ của cô người mẫu “tự phong” này trước thế giới và bản tin trên Yahoo; riêng tôi, tôi cảm thấy bị nhục lây – vì trót mang dòng máu Việt Nam! Dưới chính thể V.N.C.H., tại sao phụ nữ chúng tôi nhận thức được cách phục sức nào thích hợp với cương vị của chính mình, của Cha Mẹ mình, của người hôn phối của mình và hoàn cảnh cũng như địa điểm chúng tôi xuất hiện? Thưa, đó là nhờ chúng tôi đi học và lớn lên trong một xã hội với nền đạo đức cao và đầy nhân bản. Tôi còn nhớ, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nữ sinh các trường công lập – vì phải mặc đồng phục trắng – buộc phải mặc “áo lót” bên trong áo dài.
Trong khi chúng tôi được học về đức dục và lễ nghĩa thì thầy cô giáo trong xã hội c.s.V.N. lại – theo chỉ thị của đảng và người c.s.V.N. – dặn dò trẻ em về nhà để ý xem Ông Bà, Bố Mẹ ăn gì, nói gì, hôm sau mách lại với thầy cô để thầy cô cấp bằng khen “cháu ngoan bác Hồ”! Thử hỏi, một người, từ bé đã được dạy làm những điều khuất tất, phản Ông Bà, phản Cha Mẹ thì lớn lên người đó có sống lương thiện được hay không? Đây là nguyên nhân đích thực tại sao người c.s.V.N. không bao giờ là người lương thiện! Vì đã quen sống không lương thiện cho nên người c.s.V.N. đã lừa gạt người dân, lừa gạt bộ đội cụ Hồ rồi gán cho Quân Lực V.N.C.H. là lính đánh thuê. Về danh từ kép “lính đánh thuê” mà suốt cuộc chiến và sau cuộc chiến, người c.s.V.N. đã gán cho Người Lính V.N.C.H. thì Người Lính V.N.C.H. và chúng tôi không cần quan tâm; vì chúng tôi rất tự tin, tự biết Ông Cha, anh chị em, chồng và bạn hữu của chúng tôi chiến đấu cho ai và chiến đấu vì cái gì. Đảng và người c.s.V.N. càng “sống” lâu bao nhiêu và người Tàu hiện diện trên đất nước Việt Nam càng nhiều bao nhiêu thì hình ảnh Người Lính V.N.C.H. càng ngời sáng trong tâm tưởng của người Việt Nam bấy nhiêu – dù người c.s.V.N. manh tâm hủy hoại tất cả hình ảnh, sách vở, lịch sử của V.N.C.H.!
Người Lính V.N.C.H. đã chống quân ngoại xâm – trận hải chiến Hoàng Sa, với Trung cộng, năm 1974 – cũng như bảo vệ lãnh thổ và người dân miền Nam khỏi sự tấn công tàn bạo của c.s.V.N.. Thật vậy! Năm 1975, trong khi Người Lính V.N.C.H. tận dụng mọi phương tiện để cứu đồng bào và quân bạn từ Cao Nguyên, vùng I, vùng II Duyên Hải để đưa họ về nơi an toàn thì c.s.V.N. tấn công những đoàn người di tản bằng hỏa tiễn 122 ly! Hỏa tiễn 122 ly của c.s.V.N. rơi liên tục, rơi dai dằng, rơi bất tận, rơi điên cuồn ngay vào những dòng người đang cố chạy về phía Người Lính V.N.C.H. để được bảo vệ! Chỉ có Trời mới biết được, thời điểm đó, những đoàn người miền Nam trốn chạy khỏi cuộc xâm lăng của c.s.V.N. từ phương Bắc đã phải nhận chịu bao nhiêu ngàn hỏa tiễn 122 ly – được chế tạo tại Nga! Nhắc đến sự viện trợ – có điều kiện – của Nga cho c.s.V.N. không thể nào tôi không đề cập đến sự kiện đau lòng mà đảng và người c.s.V.N. đã bưng bít suốt nhiều thập niên qua. Sự đau lòng này được VNExpress tường thuật ngày 08-05-2019, tựa đề là Hơn 1.000 Người Diễu Hành Tưởng Niệm ‘Trung Đoàn Bất Tử’ Tại Hà Nội. Theo bản tin của VNExpress thì: “Trung tâm Khoa học và Văn hóa Nga tại Hà Nội cùng Đại sứ quán Nga sáng nay tổ chức lễ tưởng niệm ‘Binh đoàn bất tử’ tại Hoàng thành Thăng Long. Đây là lần thứ ba sự kiện diễn ra ở Việt Nam, nhằm vinh danh và tưởng nhớ công lao của các chiến sĩ hai nước trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941-1945) và Kháng chiến chống Mỹ.” Xin nhắc lại ở đây là vào những năm 1941-1945, Hồ tặc đã gởi qua "Mát-xcơ-va" một trung đoàn lính đánh thưe Việt Nam để giúp Nga đánh lại Đức Quốc Xả, trung đoàn đó sau này được vình danh là BINH ĐOÀN BẤT TỬ vì chết gần hết, còn sót lại vài người. Bài báo trên trang mạng Hoàng Thành Thăng Long đã viết như sau : "Nước Nga không bao giờ quên được chiến công của những chiến sỹ Việt Nam đã hy sinh thân mình tại vùng ngoại ô Matxcova mùa đông năm 1941, 1942."
Xin hỏi người c.s.V.N.: “… Các chiến sĩ hai nước…” là hai nước nào? Có phải là nước Nga và nước Việt Nam hay không? Thế thì, từ năm 1941 đến 1945, Việt Minh – tiền thân của đảng c.s.V.N. – đã đưa bộ đội cụ Hồ sang Nga đánh giặc và chết thế cho lính Nga để đổi lại vũ khí thì bộ đội cụ Hồ không là lính đánh thuê thì ai là lính đánh thuê đây ? Quân Lực V.N.C.H. được thành lập sau hiệp định chia đôi đất nước Việt Nam, năm 1954 – sau ngày c.s.V.N. đưa bộ đội cụ Hồ sang Nga làm lính đánh thuê cho Nga những 09 năm lận ! Từ 1954 đến nay, không ai thấy hoặc có bằng chứng về bất cứ một quân nhân nào thuộc Quân Lực V.N.C.H. sang chiến đấu trên đất nước khác – như c.s.V.N. đã thực hiện trong “cuộc chiến tranh vệ quốc vỹ đại” tại Nga từ 1941đến 1945 và “nghĩa vụ quốc tế” tại Cao Miên sau năm 1975! Và cũng không có đại diện của bất cứ nước nào trên thế giới cảm ơn Quân Lực V.N.C.H. về chiến thắng trên đất nước của họ cả. Xin mở ngoặc ở đây để người c.s.V.N. khỏi giả vờ hiểu lầm: Từ 1975, sau khi thoát khỏi sự trả thù tàn độc và đê hèn của người c.s.V.N., người miền Nam chúng tôi đã từ bỏ Việt Nam, nhận Hoa Kỳ là Quê Hương thứ hai và trở thành công dân Hoa Kỳ. Để đền ơn một đất nước đã cưu mang chúng tôi trong khi chúng tôi bị người đồng chủng cố tình giết hại, con em của chúng tôi , nay là công dân Hoa Kỳ tình nguyện tham gia vào quân đội Hoa Kỳ để bảo vệ đất nước mà chúng tôi thọ ơn. Và tập thể quân nhân Hoa Kỳ gốc Việt đã có vài vị lên Tướng. Một trong những vị Tướng gốc Việt này là nạn nhân trực tiếp và cũng là nhân chứng sống trong cuộc tàn sát đẩm máu do người c.s.V.N. thực hiện – và sau 1975, hằng năm, c.s.V.N. vẫn tổ chức rất “hoành tráng” ăn mừng thành tích giết được quá nhiều người Việt – tại miền Nam Việt Nam, năm 1968, Tết Mậu Thân! Trong cuộc “giết người hằng loạt” năm Mậu Thân, do c.s.V.N. thực hiện một cách man rợ trên khắp miền Nam Việt Nam, cậu bé nạn nhân này chỉ mới 10 tuổi. Bố của nạn nhân này là đại tá Thiết Giáp V.N.C.H., bị c.s.V.N. buộc phải đưa chìa khóa và hướng dẫn c.s.V.N. cách thức xử dụng xe thiết giáp – để c.s.V.N. dùng các xe thiết giáp đó tàn sát thêm nhiều người miền Nam nữa ! Đại tá từ chối. Sau khi không thể thuyết phục được vị đại tá Thiết Giáp V.N.C.H. can cường, c.s.V.N. hạ lệnh cho nhóm khủng bố Bảy Lốp giết vị đại tá bất khuất và giết cả gia đình của Ông – gồm vợ và sáu người con của Ông. Không hiểu sự kỳ diệu nào đã phù hộ cho một trong sáu người con của vị đại tá V.N.C.H. oai hùng được sống sót để trở thành một trong nhiều sĩ quan ưu tú gốc Việt của quân đội Hoa Kỳ!
Tôi muốn đề cập đến Hải Quân đại tá Nguyễn Từ Huấn – con của cố đại tá thiết giáp V.N.C.H. Nguyễn Tuấn – đã được Ủy Ban Quân Sự Thượng Viện Hoa Kỳ chuẩn thuận vào ngày 27-06-2019 để vinh thăng Phó Đề Đốc. Lễ thăng cấp sẽ được tổ chức vào tháng 10-2019. Sự thành công vượt bậc của người Việt tỵ nạn thế hệ thứ II rất đáng vui mừng, rất đáng hãnh diện! Chúng tôi càng hãnh diện hơn khi tập thể quân nhân Hoa Kỳ gốc Việt tự nhận là Hâu Duệ V.N.C.H.! Hành động và ý nghĩa của Hậu Duệ V.N.C.H. rất cao cả. Người c.s.V.N. – nếu biết suy nghĩ và biết tự thẹn – sẽ không cố tình “nhập nhằn” Hậu Duệ V.N.C.H. công dân Hoa Kỳ gia nhập quân đội Mỹ với những người Việt Nam đã bị cụ Hồ, đảng và người c.s.V.N. đưa sang Nga đánh giặc thuê từ thập niên 40 của thế kỹ XX! Xin trở lại với bản tin trên VNExpress. Bài tường trình của nhà báo Vũ Anh viết tiếp: “Họ đeo trên ngực trái dải băng Thánh Gregory biểu tượng chiến thắng của dân tộc Xô-Viết, diễu hành khoảng 100m từ cổng Hoàng thành Thăng Long vào sân khấu chính trong nền nhạc ‘Cuộc chiến tranh thần thánh’ của Liên Xô. Dọc hai bên đoàn diễu hành là ảnh chân dung của những chiến sĩ đã ngã xuống cho độc lập, tự do của tổ quốc.” Người c.s.V.N. hãy trả lời và người Việt trong nước nên đặt vấn đề: Tại sao cụ Hồ, đảng và người c.s.V.N. đưa Người Việt Nam sang Nga chiến đấu và chết cho “chiến thắng của dân tộc Xô Viết… trong nền nhạc ‘Cuộc chiến tranh thần thánh’ của Liên Xô?… chân dung của những chiến sĩ đã ngã xuống cho độc lập, tự do của tổ quốc”… Tổ quốc này là tổ quốc nào? Hai chữ “tổ quốc” ở cuối câu – trong bài báo của Vũ Anh – đã xác định là tổ quốc của Nga Sô chứ không phải là tổ quốc Việt Nam ! Điều này chứng tỏ não trạng của bọn Cọng Sản Việt Nam xem người Nga là tổ tiên của mình cho nên mới gọi nước Nga là "tổ" quốc. Rõ Việt Cọng là một bọn bán linh hồn và căn cước cho ngoại bang ! Nếu người Việt trong nước chưa tin rằng cụ Hồ, đảng c.s.V.N. đã đưa người Việt Nam sang Nga làm lính đánh thuê từ xưa thì kính mời quý vị đọc tiếp đoạn sau đây: “Nước Nga không bao giờ quên được chiến công của những chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh thân mình tại vùng ngoại ô Moskva trong giai đoạn 1941-1942. Chúng tôi cảm phục sự dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng mà quân và dân Việt Nam thể hiện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ.” Đại tá hải quân Roman Boitsov, tùy viên quân sự Nga tại Việt Nam, cho biết. “Hai năm rõ mười” rồi đấy nhé! Đại tá tùy viên quân sự Nga – Roman Boitsov – đã xác định thời gian và không gian mà ông Hồ Chí Minh, đảng và người c.s.V.N. đã đưa bộ đội cụ Hồ sang Nga đánh thuê cho Nga và chết thế cho lính Nga rồi đấy! Mặt nạ của ông Hồ Chí Minh, đảng và người c.s.V.N. đã rơi xuống rồi! Người Việt Nam trong nước – nhất là người trẻ – nghĩ gì về sự thật đốn mạt này? Các bạn có đau lòng, có xót xa cho dân tộc, cho đất nước bị tủi nhục và bị c.s.V.N. lừa gạt suốt mấy mươi năm dài hay không? Hay là các bạn cứ muốn tiếp tục để c.s.V.N. “ru ngủ” bằng những lễ hội “hoành tráng” và “các em chân dài” để rồi một ngày nào đó, các bạn hoặc con cháu của các bạn cũng sẽ trở thành lính đánh thuê cho Nga và Trung cộng? Chỉ có bạn mới có thể quyết định được cuộc đời của bạn và mở đường cho con cháu của bạn sau này. Như Govinda đã nói: “All of us start from zero. We take the right decision and become a hero.” (Tất cả chúng ta bắt đầu từ con số không. Chúng ta chọn quyết định đúng đắn và trở thành người anh hùng - Google translate) ĐIỆP MỸ LINH
|
|
|
Post by Thế giới đó đây on Jul 23, 2019 11:44:32 GMT -6
Gà bài cho Võ Văn Thưởng - Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương!
Tác giả: LM Đặng Hữu Nam
Trong dịp vừa qua, đồng chí phùng mang trợn mắt thuyết sảng hơn với 75 phút, nói về bọn thế lực thù địch, bọn tha hoá đạo đức trong quan chức, bọn tự diễn biến, tự chuyển hoá và cách đối phó cũng như trang bị cho các Dư Luận Viên, Lực Lượng AK47 những tuyệt chiêu để hộ đảng với “khẩu quyết, tâm kinh”: “NAM MÔ AK ĐIỂM XẠ ĐẠI TỪ BI HOẰNG PHÁP AN DÂN HỘ QUỐC BÚA LIỀM ĐẢNG CHÚNG BỒ TÁT”... Tôi, Linh mục Đặng Hữu Nam, xin hiến kế giúp đồng chí vài tuyệt chiêu để chỉ đạo cho lực lượng cào phím, làm giàu thêm “cẩm nang chống phản động” trên không gian mạng, cuộc chiến chống lại nhân dân, chống lại sự thật như sau: 1 - Nếu người phê phán Đảng đã lớn tuổi thì ta bảo họ thù hằn quá khứ, chỉ biết moi móc, ăn mày dĩ vãng chứ làm được gì! 2 - Nếu chúng còn trẻ thì ta bảo lũ trẻ trâu chưa biết sự đời, phải đi làm rồi hãy lên tiếng! 3. Nếu đã đi làm thì ta bảo toàn kẻ bất mãn vì thất bại! 4 - Nếu đã thành công có sư nghiệp như Lê Công Định, Cù Huy Hà Vũ, Lê Hoài Anh, Trần Huỳnh Duy Thức... ta bảo chúng không có cái tâm, không phải tri thức thật, được voi đòi tiên, sau khi đã no thân ấm cật bây giờ muốn mưu triều soán vị, tham danh tiếng! 5 - Nếu trí thức hẳn hoi như Ngô Bảo Châu, Lê Đăng Doanh, Hoàng Tụy... thì ta bảo họ chẳng có kinh nghiệm chính trị, dân khoa học biết gì chính trị mà bàn! 6 - Nếu có kinh nghiệm chính trị ta bảo chúng có dã tâm chính trị, mưu đồ bất chính! 7 - Nếu là dân thường ta thách chúng nhìn từ khía cạnh đảng viên, của người lãnh đạo để thấy khó! 8 - Nếu là đảng viên như Bùi Tín, Trần Độ, Chu Hảo... ta bảo chúng là bọn phản bội, ăn cháo đá bát! 9 - Nếu chưa đi nước ngoài ta hãy bảo ra nước ngoài để thấy Việt Nam tốt như thế nào, Việt Nam ta đã đánh thắng 2 đế quốc sừng sỏ, Việt Nam ta là nước tóp đầu thế giới về đáng sống! 10. Nếu đã ra nước ngoài thì ta bảo lũ vọng ngoại, ham bơ thừa sữa cặn, cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về dày mả tổ! 11 - Nếu ở Hải Ngoại thì ta bảo chúng là bọn đu càng, 3 que, tàn dư Mỹ Ngụy, bè lũ tư bản, đã thua chạy té khói còn nói láo, có giỏi về Việt Nam đấu tranh này! 12 - Nếu ở trong nước ta bảo chúng bị kích động, nhận tiền của thế lực thù địch, lũ bị giựt dây, bị Việt Tân cho tiền, lòng yêu nước bị lợi dụng, hãy cút ra nước ngoài mà sống! 13 - Nếu viết bài trên mạng ta bảo bọn chỉ biết gõ bàn phím, ăn không ngồi rồi, chuyên tâm vào công việc của mày đi, bọn bay yêu cây, yêu cá, bảo vệ môi trường lắm mà, sao không vào Hà Tĩnh mà dập lửa cứu rừng! 14 - Nếu hành động xuống đường biểu tình đòi quyền lợi, ta nói chúng toàn là bọn gây rối mất trật tự xã hội, chắc hẳn nhận tiền của các thế lực thù địch, quay về nhà làm ăn đi. Mọi việc đã có Đảng và Nhà Nước lo! 15 - Nếu chúng là bọn Công Giáo, ta cứ vu cho chúng cấu kết với thực dân Pháp xâm chiếm nước ta! 16 - Nếu chúng là người có đạo, ta cứ chửi bọn chiên ngu đi nghe lời mấy tên cha xứ bán nước, phản động, kém hiểu biết! 17 - Nếu chúng là người có thế giá, ta cứ việc vu cáo cho những điều mất uy tín và thanh danh như: là nhà tu ta vu cho nó có vợ con bên ngoài, là cha xứ ta vu cho nó lấy tiền dân tiêu xài, là luật sư ta vu cho tội trốn thuế! 18 - Nếu chúng là Linh mục, ta dùng những comments thật tục tỉu, dùng những tên “mở miệng là thấy phụ khoa, mở lời là thấy loạn luân...” để chửi bới là chúng phải sợ! 19 - Nếu chúng là kẻ hữu thần, ta chỉ việc đánh vào Đức tin của nó như chửi bới thật tục tĩu, xúc phạm niềm tin cũng như các biểu tượng, các Thần Thánh, Thượng Đế, Chúa, Mẹ... của nó! 20 - Nếu chúng nói sự thật khiến nhiều người tin, chúng chê ta dốt nát, chúng vạch lá tìm sâu, chúng đưa ra bằng chứng... ta hỏi chúng có nước nào không có kẻ xấu, có chế độ nào được như chúng ta yên bình và đáng sống! Bên cạnh đó ta áp dụng cùng lúc cả đống biện pháp như: - một comment chửi bới được cọng 3 ngàn đồng vào lương ! - đặt chỉ tiêu comment độc nhất, tục nhất, mất dạy nhất... cho từng ngày, từng tháng, từng quý, từng năm để tính thưởng! - huy động tổng lực lực lượng các loại hiện có (khoảng 120.000) vào báo cáo để đánh sập chúng! - những biện pháp cúp điện, bóp băng thông, ngắt kết nối... cũng là biện pháp hữu hiệu! CUỐI CÙNG: LUẬT AN NINH MẠNG CÒN PHANG ĐƯỢC HIẾN PHÁP THÌ BỌN PHẢN ĐỘNG LÀ CÁI THÁ GÌ! Chúc đồng chí vui! 11.07.2019 LM Đặng Hữu Nam danlambaovn.blogspot.com
|
|
|
Post by Dân Làm Báo on Jul 23, 2019 14:40:48 GMT -6
Thù địch của Tổng Tịch
Nguyễn Phú Trọng là Chủ tịch Nước. Chủ tịch Nước mà khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm thì câm. Nguyễn Phú Trọng là Tổng bí thư của đảng lãnh đạo. Nhưng khi ngoại bang hoành hành lãnh hải của Tổ quốc thì nín. Đến khi mở miệng ra thì thù địch không phải là Tàu mà là lòng yêu nước của công dân Việt Nam. Đối với Nguyễn Phú Trọng, bất kỳ lòng yêu nước nào và của bất kể của ai, nếu nó không đến từ cửa miệng của đảng thì tất cả lòng yêu nước là thứ lòng bị lợi dụng. Lợi dụng bởi những thế lực thù địch mặc dù "thế lực thù địch" như bóng ma đó không làm tổn hại đất nước một tấc đất, một tấc biển. Kết cuộc lại thì "thế lực thù địch" chỉ nằm trong trí tưởng tưởng của "thế lực thân địch" mà Nguyễn Phú Trọng là kẻ đứng đầu. Chỉ có những kẻ thân địch mới bàng quan trước những hành vi xâm lược đang làm xã hội dậy sóng phẫn nộ. Chỉ có thân địch nên mới quay cuồng chụp mũ, vu khống, răn đe, hù dọa và trấn áp lòng yêu nước. Chủ tịch Nước là nguyên thủ quốc gia nhưng không có một lời tuyên bố nào với thế giới khi đất nước mình bị xâm phạm. Chủ tịch Nước là người thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân nhưng lại câm lặng để lực lượng thành một đám bám bờ, vũ trang thành đồ mã, nhân dân bất động và bất lực trước hoạ xâm lăng. Chủ tịch Nước là Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh quốc gia nhưng lại ngậm miệng thì đất nước chỉ là cái chợ trời cho quân xâm lược làm mưa làm gió. Và Tổng Bí thư, người lãnh đạo cao nhất của đảng độc quyền cầm quyền thì chỉ lo chăm chú chuyện đốt lò để thanh toán cựu thù nội bộ. Cả đảng với hơn 4 triều đảng viên ngơ ngáo nhìn về Tổng Bí thư như một đám hàng thần lơ láo không biết phận nước ra sao. Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước CHXHCNVN, thực chất chỉ là tên đặc khu trưởng đặc khu Việt Nam của Tàu. Đó là tên đứng đầu thế lực thân địch và thế lực thù địch của hắn là nhân dân Việt Nam. 23.07.2019 CTV Danlambao danlambaovn.blogspot.com
|
|