|
Post by BTN on Jun 8, 2015 8:46:48 GMT -6
Bài viết “HAY NHẤT TRONG NĂM” Editor | June 7, 2015 2:29 am ________________________________________ Xin chia sẻ lá thư cửa ông Nguyễn Tiến Dân, một công dân của CHXHCN, gửi chủ tịch nước Trương Tấn Sang, về vấn đề mại dâm hiện nay ở nước ta.
Trước tiên phải bái phục sự can đảm của tác giả cho biết rõ dịa chỉ nhà ở, số điện thoại của tác giả một cách công khai. Thứ hai khâm phục hiểu biết và lý luận thật vững chắc không có một sơ hở nào để bị đánh bại. Qua hai yếu tố trên, tôi đánh giá bài viết “HAY NHẤT TRONG NĂM” (vì không thấy đề năm nào) không những của VN mà của cả thế giới, nhất là THẾ GIỚI CỦA NGƯỜI NGHÈO. Quí vị nghĩ sao? Ðọc bài này nghe sướng cái lỗ tai quá. Xin bái phục sự can đảm của tác giả. Kính gửi: ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước CHXHCN Việt nam. Tên tôi là: Nguyễn Tiến Dân. Ðịa chỉ: 208 Ðịnh Công Thượng – quận Hoàng Mai – Hà nội. Ðiện thoại: 0168-50-56-430 Như đã viết trong bức thư trước, lần này, xin hầu chuyện ông với đề tài “Mại dâm dưới chế độ Cộng sản”. Ðề tài mà rất nhiều người đã đề cập. Tiếc thay, do không có thực tế, nên họ chỉ đề cập được 1 cách phiến diện. 1/ Phán xét về mại dâm, chưa có ai cho rằng nó là tốt. Ai cũng cho nó là xấu. Bởi ít nhất, nó chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ. Tuy vậy, cũng không thể không thừa nhận: Mại dâm là 1 thực tế khách quan. Nó hiện diện ở khắp nơi trên trái đất. Nó có từ xa xưa. Nó tồn tại đến ngày nay và chắc chắn, nó sẽ song hành cùng nhân loại. Ðừng có mơ cấm được mại dâm. Mại dâm chỉ không có trong xã hội nguyên thủy và trong thế giới của loài súc vật. 2/ Viết về mại dâm, không thể không nhắc đến 2 tác phẩm: Truyện Kiều của Nguyễn Du và Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu. a/ Ở truyện Kiều, Nguyễn Du tố cáo chế độ phong kiến mục nát, suy đồi. Ngay từ “thằng bán tơ” mạt hạng, cũng biết cách câu kết với quan lại, sai nha để ngang nhiên ăn cướp của dân lành. Truyện Kiều không nói rõ, nhưng tôi đoán (rất mong là đoán nhầm), chúng đã ném “2 cái bao cao su đã qua sử dụng” vào nhà Vương viên ngoại, tạo cớ cho “trận cướp đẹp”. Cướp sạch của nổi, của chìm của người ta rồi, chúng vẫn chưa thỏa mãn. Chúng tiếp tục “huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc”, để bắt bớ, đánh đập, tra người, khảo của. Chung cuộc, nàng Kiều dẫu có tài sắc vẹn toàn đến đâu thì cũng phải tự bán mình vào lầu xanh, lấy tiền mà đút lót tiếp cho lũ tham quan vô lại. Chỉ dám mong 1 điều thật nhỏ nhoi: Của thì đã mất rồi, nhưng cha và em được “cốt nhục vẹn toàn”. Xét về đạo lí, sự hi sinh ấy, thật là lớn lao, thật là cao thượng. Cũng như nàng Kiều, từ xưa tới nay, bao cô gái khác, khi bước chân vào chốn lầu xanh, phải đâu do họ tự nguyện. Xã hội phong kiến vô pháp, vô luân đã dồn họ đến bước đường cùng. Thúy Kiều tuy chỉ là gái lầu xanh. Nhưng từ đầu tới cuối tác phẩm, Nguyễn Du chưa bao giờ mạt sát, khinh bỉ nàng. Ông mô tả nàng có tình cảnh đáng thương và có cuộc đời đáng được thông cảm. Sống trong đống bùn, mà nhân cách vẫn tỏa sáng. Nàng không giống những kẻ đê tiện: Tối chơi gái tràn lan, ngày vẫn lên mặt “Nghĩ mình phương diện Quốc gia”. Sự khinh bỉ nếu có, Nguyễn Du chỉ dành cho chế độ phong kiến suy đồi. Một cách nhìn đầy nhân văn, phải không ông? b/ Trong truyện ngắn Chí phèo, Nam Cao mở đầu: “Một sáng tinh sương, anh thả ống lươn nhặt được đứa bé mới đẻ xám ngắt, đùm trong cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ”… Cuối cùng: “Thị nhìn nhanh xuống bụng mình, và thoáng chợt thấy một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…”. Nam Cao giỏi ở chỗ tuy không trực tiếp nói ra, nhưng độc giả vẫn hiểu: “Ðó là kiếp luân hồi. Chí Phèo này có chết đi, còn nhiều thằng Chí Phèo khác đã chuẩn bị mọc lên thay thế. Ðời không thể thiếu vắng Chí Phèo”. Với Tiếng hát sông Hương, ông Tố Hữu cũng dùng thủ pháp tương tự. Mở đầu, hiện thực của thời Thực dân, Phong kiến: “Trên dòng Hương Giang” là cô gái với bao nỗi nhục nhã, ê chề khi phải bán thân nuôi miệng… Cuối cùng (nguyên văn trong tác phẩm), ông ta có cách dòng (ngầm hiểu là đã bước sang trang, đã đến “ngày mai huy hoàng”), rồi cũng vẫn lại “Trên dòng Hương Giang”. Riêng về mặt này, Tố Hữu xứng đáng là bậc tiên tri. “Ngày mai huy hoàng” đã đến, không còn cô gái kia trên sông, bởi cô đã quá già. Thay vào đó, hằng hà sa số những cô gái trẻ khác, mọc lên thay thế. Mại dâm đâu có mất đi trong chế độ CS. Thậm chí nó còn phát triển mạnh mẽ hơn (Khắp hang cùng ngõ hẻm, tìm đâu cũng có), tinh vi hơn (Vì nó biết cách ứng dụng cả công nghệ thông tin) và trắng trợn hơn (Bởi nó ngang nhiên tiếp thị ở ngay ngã 3, ngã 4 đường phố. Thậm chí hành nghề ngay tại gốc cây, sườn đồi) 3/ Thưa ông Chủ tịch, Trời sinh ra con người. Trên cơ thể mỗi con người, có nhiều bộ phận. Mỗi bộ phận, đều có chức năng riêng. Nếu không hoạt động, chức năng ấy sẽ bị suy thoái. Một kẻ, dẫu có mang danh Giáo sư – Tiến sĩ, nhưng đầu óc mà lười suy nghĩ, kẻ đó tất bị lú lẫn, u mê. Mắt mà không tự nhìn đường, cứ đi theo “định hướng” của ai đó, lâu dần sẽ bị thong manh. Ðổ băng keo vào miệng thiên hạ, sẽ khiến người ta không nói được. Người ta không nói được, khiến ta không phải tranh biện với ai. Không phải tranh biện với ai, lâu dần lưỡi ta sẽ cứng lại. Lúc đó, ta ăn nói giống như 1 kẻ ngây ngô, thiểu năng về trí tuệ. “Ðè đầu cưỡi cổ” thiên hạ, những tưởng mình giỏi giang và lấy làm đắc ý. Ðâu hay: Ngồi trên lưng người khác, chân tay ta lâu ngày không phải hoạt động, cơ của nó sẽ teo đi. Trên con tàu vũ trụ, do được điều kiện không trọng lượng nâng đỡ, xương của phi hành gia không phải làm việc như bình thường. Lâu dần, nó sẽ bị thoái hóa. Trở về mặt đất, cần phải có thời gian và chế độ riêng để nó phục hồi… Khác gì những tổng công ty, những tập đoàn kinh tế nhà nước. Chúng hoạt động, mà không dựa vào thực lực của mình. Chúng tồn tại, dựa trên sự bú mớm vào ngân sách nhà nước. Trước sau, chúng cũng phải chết. Ðó là những sự thực hiển nhiên. Tương tự, bộ phận sinh dục của con người, khi già-trẻ; ốm-khỏe có tần suất hoạt động khác nhau. Nhưng nói chung, nếu không được “cọ xát”, dẫu có thủ dâm thì nó cũng vẫn sẽ bị suy nhược. Từ đó, u – xơ – ung – nhọt dễ có điều kiện phát sinh. Nghiêm trọng hơn, “bí hạ (thì phải) phá thượng”. Ối anh sẽ bị suy nhược theo nó. Ðó là thường thức cơ bản của phép dưỡng sinh. 4/ Chẳng cứ Việt nam, nhiều nước khác cũng muốn cấm mại dâm. Liệu họ có đạt được mục đích không? Ta hãy thử xét về mặt đạo lí và qui luật cung – cầu: a/ Với người đi mua dâm: Xin không nhắc đến “một bộ phận không nhỏ” những kẻ mê tín, chỉ thích đi lùng gái trinh như Lương Quốc Dũng. Cũng không xét đến những những bậc nam nhi, vợ con đề huề, thỉnh thoảng vẫn thích đi ăn vụng như Nguyễn Trường Tô. Ở đây, chỉ xét những trường hợp có nhu cầu thật sự và mong nhận được sự thông cảm của những người, mà tối đến, vợ chồng vẫn còn được ôm nhau ngủ. Chẳng hạn: Có người, vợ chết sớm, để lại cho mình những đứa con thơ dại, kháu khỉnh, thông minh. Tuy còn trẻ khỏe, nhưng tình yêu mãnh liệt với người vợ, đã khiến ông ta không muốn đi bước nữa. Ông ta ở vậy để nuôi con. Bởi, chúng là kết tinh tình yêu của họ. Thỉnh thoảng, ông ta muốn hòa hợp âm-dương. Nhu cầu ấy có chính đáng và có nên thông cảm không? Tôi có quen 2 người cao tuổi. Vợ họ bị ốm liệt giường hàng chục năm trời. Họ dịu dàng chăm sóc vợ. Không hề có một lời phàn nàn, cáu gắt trong chừng ấy năm trời. Họ cũng chẳng ngó ngàng tới bất cứ một người nào khác giới. Nhân cách, tình yêu của họ thật đáng ngưỡng mộ. Trên thế gian này, hỏi có mấy người được như vậy. Ðặt giả thiết: Thỉnh thoảng, họ muốn hòa hợp âm-dương. Nhu cầu ấy có được coi là chính đáng và có nên thông cảm không? “Tốt mái, hại trống” câu này ai cũng biết. Chắc chắn, ông cũng quen nhiều bà quan chức. Họ ăn lắm, tẩm bổ nhiều, béo như con trâu trương. Gia đình họ, nếu sống thủy chung, ông chồng “má hóp đít tóp” là điều chẳng phải nghi ngờ. Ngược lại, có những ông chồng khỏe đến phát sợ. Có thể “nhất dạ, ngũ giao…”. Vợ khỏe cũng chẳng chịu nổi, kể chi đến những bà hom hem, bệnh tật. Thế nên, ngày xưa có bà phải tự nguyện “tay bưng trầu, đầu đội lễ” đi hỏi vợ lẽ cho chồng. Mong sao có người, đêm đến nó đỡ đần cho. Nay, làm gì có chế độ đa thê. Không đưa tiền cho người ta đi xả bớt ra, kẻ bị thiệt thòi chính là bà vợ. Nhu cầu ấy, đành rằng là không chính đáng, nhưng có nên thông cảm cho bà vợ của ông ấy không? Những người nước ngoài sang công tác lâu dài ở Việt nam, do điều kiện, họ không thể mang vợ con theo được. Họ khỏe mạnh, họ có tập quán thoáng đãng về tình dục. Thỉnh thoáng, họ muốn hòa hợp âm-dương. Nhu cầu ấy có chính đáng và có nên thông cảm không? Có người thiệt thòi toàn diện: Không bảnh trai, văn hóa lùn, hoàn cảnh gia đình lại khó khăn. Không cô gái nào chịu lấy anh ta làm chồng. Nhu cầu kia rõ ràng là vẫn có. Thỉnh thoáng, anh ta muốn hòa hợp âm-dương. Nhu cầu ấy có chính đáng và có nên thông cảm không? Có những chàng trai, do phấn đấu cho sự nghiệp, nên họ lập gia đình muộn. Họ không muốn gạ gẫm, bồ bịch bất chính với bạn học. Không muốn gạ gẫm, bồ bịch bất chính với “con thày-vợ bạn-gái cơ quan”. Họ cũng không muốn “nhịn” quá lâu. Thỉnh thoáng, họ muốn hòa hợp âm-dương. Nhu cầu ấy có chính đáng và có nên thông cảm không? Còn nhiều và rất nhiều trường hợp khác nữa. Nhưng sợ phải làm mất thì giờ quý báu của ông, nên tôi không tiện kể thêm. b/ Với người đi bán dâm: Thưa ông, tôi có mở quán Karaoke và Xông hơi tại 544 đường Láng – Ðống đa – Hà nội. Dĩ nhiên, trong quán của tôi không có dịch vụ mại dâm. Do đặc thù công việc, tôi phải tiếp xúc hàng ngày với các cháu nhân viên. Xin khẳng định với ông: Không có cháu nào cảm thấy hãnh diện, khi phải làm cái nghề này. Phải đi làm, bởi không có con đường nào khác. Tôi kể ông nghe một trường hợp: Cách đây hơn chục năm, có 1 cháu đến làm việc ở chỗ tôi. Cháu nó không đẹp, ăn mặc lại giản dị. Nhưng nhiều người thích nó. Ai rủ đi ngủ, cháu cũng đi. Lạ nhất là: kiếm được rất nhiều tiền, nhưng cháu không hề đua đòi, chưng diện. Tò mò, tôi có hỏi cháu. Nó khóc, rồi dẫn tôi về thăm nhà. Ðến nơi, tôi bàng hoàng. Nhà nó nghèo. Bố mẹ đã già yếu, lại bệnh tật. Các em đã đông, lại còn nhỏ. Nhà cửa, trước kia chỉ là mái lều tranh xiêu vẹo. Ruộng đất không có. Là chị cả, cháu cam chịu hi sinh thân mình, để cứu cả nhà. Cháu nghiến răng xác định: Ra Hà nội để kiếm tiền. Bao nhiêu tiền kiếm được, cháu đều gửi về quê. Trước hết, cho tất cả các em được đi học. Còn lại, để bố mẹ làm ăn và xây được căn nhà cấp 4. Ðối với gia đình cháu, đó là mơ ước, tưởng như không bao giờ là hiện thực. Chuyện của cháu, chỉ bố mẹ biết. Nhưng, khác hẳn với thái độ của những người CS các ông. Họ luôn ân hận, xót xa vì mình không giỏi, nên con cái phải chịu khổ. Sau này, khi nhà cháu đã qua được bước khó khăn, cháu bỏ nghề. Lập gia đinh, cháu lấy người chồng biết rõ và thông cảm với hoàn cảnh của cháu. Về nhà chồng, cháu không có của riêng tư chìm nổi. Trước khi ra đi, cháu nó khóc và nói với tôi: “Con xin vĩnh biệt bố”. Tôi hiểu, mình không được phép khuấy động cuộc sống riêng tư của cháu và sẽ tốt hơn, nếu để quá khứ đau buồn, nó chìm vào quên lãng. Ông ơi, nhân cách của những CON NGƯỜI ấy, có xứng đáng được ta tôn trọng? Thúy Kiều có vĩ đại bằng cháu không? Ðứng trước cháu, tôi có cảm giác, mình bị lùn đi. Còn ông, ông thấy thế nào? 5/ Bây giờ, với tư cách là người đứng đầu đất nước, xin ông trả lời công khai cho người dân chúng tôi: Các ông luôn gào thét, đòi để “đảng CS được lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối” xã hội Việt nam. Các ông lãnh đạo kiểu gì, mà bao nhiêu nam thanh, nữ tú của chúng ta thất nghiệp. Họ không thể kiếm tiền, để nuôi sống được chính bản thân mình. Nói chi đến gia đình. Không có tiền, đói các ông có cho họ ăn không? Không có tiền, con cái của họ có được các ông cho đi học không? Không có tiền, ốm đau các ông có cho họ được đến bệnh viện không? Không có tiền, lại thất học và vô nghề nghiệp, các ông có bố trí được công ăn việc làm cho họ không?… Tất cả các câu hỏi trên, đều có chung câu trả lời. Ðó là “Không”. Là người Việt, ông Chủ tịch không thể không biết câu này “Bụng đói, đầu gối phải bò”. Ðường cùng, các cháu đành mang cái “vốn tự có” ra mà kiếm ăn. Không sung sướng gì đâu, nhục nhã lắm, ông ạ. Những người CS các ông, quả thật là lũ bất tài, vô dụng. Làm lãnh đạo, mà không lo được cuộc sống tối thiểu về ăn mặc, khám chữa bệnh, học hành, công ăn việc làm cho người dân. Khiến rất nhiều cháu gái, chúng nó phải đi bán thân (18.000 gái Việt ra nước ngoài hành nghề mại dâm mỗi năm; còn Bộ Lao động – thương binh & Xã hội ước tính năm 2013 có 33.000 gái mại dâm, đó là không thèm thống kê ở 2 địa bàn trọng điểm Quất Lâm, Ðồ Sơn). Lẽ ra, người phải ân hận, phải xấu hổ là các ông, là đảng CS. Ðã không biết xấu hổ, lại còn nhâng nháo lên mặt đạo đức khi ra lệnh cấm mại dâm. Ðể mà đổ lỗi, cho rằng mại dâm là tàn dư của chế độ cũ (Chế độ, mà nó sụp đổ cách đây có nhõn 4 chục năm); cho rằng, các cháu phải đi bán thân, bởi chúng nó hư hỏng, lười lao động và thích ăn chơi. Ông Chủ tịch và các quí bà to mồm, ăn no, rửng mỡ ở hội Phụ nữ VN, ở bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có hình dung ra kịch bản này không: Khi các ông cấm riết, các cháu làm nghề mại dâm trên toàn quốc, chúng nó kéo về trụ sở hội Phụ nữ và trương biểu ngữ: “Nhiệt liệt hoan nghênh nhà nước cấm mại dâm (chúng nó hoan nghênh thật lòng đấy, ông ạ) – Xin hãy bố trí công ăn việc làm cho chúng tôi – Nếu không được, hãy nuôi chúng tôi – Nếu không nuôi được chúng tôi, hoặc mặc kệ để chúng tôi đi bán dâm; hoặc các ông, các bà hãy từ chức đi, để chúng tôi bầu những người có tài, có đức lên làm thay – Họ sẽ lo cho chúng tôi”. Lúc đó, các ông, các bà sẽ “xử lý” như thế nào? 6/ Ông ạ, đã có ai nói với ông về những sự thật này chưa: Nhiều phụ nữ, trẻ em Việt ở độ tuổi vị thành niên, bị gạ gẫm, rồi bị đem bán vào các động mãi dâm ở Campuchia, ở Ma cau…? Nhiều phụ nữ Việt bị bắt cởi trần truồng, cho mấy thằng Ðại Hàn, Trung Quốc, Ðài Loan ngắm nhìn, sờ mó để tuyển… “vợ”? Có phụ nữ Việt bị đặt trong lồng kính để bán đấu giá tại Mã Lai; bị rao bán công khai trên bích chương tại Ðại Hàn? Nhiều phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc, Ðài Loan đã bị đánh đập, bị hành hạ, bị giết. Nhưng, tỉ lệ này còn thấp và ít rủi ro hơn so với lấy chồng Trung Quốc. Tình trạng lấy chồng Trung Quốc, sau đó bị ngược đãi, bị làm vợ tập thể, bị sang tay và vứt ra đường khá phổ biến. Cuối năm 2013, ba cô dâu Việt Nam là Tô Thị Hà, Trịnh Thị Hoa, Mai Thị Sư được điều trị tại Bệnh viện thần kinh thành phố Phúc Châu, tỉnh Kiến Phúc (chắc là Phúc Kiến) – Trung Quốc. Cả ba người đều là nạn nhân của lấy chồng Trung Quốc. Họ bị đày đọa nhiều năm, cho đến khi thân tàn thì bị đuổi ra khỏi nhà… Có nhiều trường hợp bị đẩy vào động mại dâm, bị khai thác như súc vật cho đến khi bệnh tật, bị chết hoặc điên dại.”. Báo Dân trí ngày 18/01/2014 đưa tin: “Sự sỉ nhục nhìn từ những cô dâu bị giết”. Nhân phẩm người phụ nữ Việt xuống cấp. Họ chỉ như một món hàng, bị bọn ngoại quốc, công khai giày vò, làm nhục. Tại ai? Ðó không phải là quốc nhục, thì đối với những người CS, cái gì đáng bị gọi là quốc nhục? Trước thực trạng ấy, với tư cách là nguyên thủ Quốc gia, ông có thấy nhục nhã và xấu hổ không? Ra ngoài đường thì so vai, rụt cổ, im thin thít, chẳng dám ho he – thể hiện sự hèn hạ vô cùng. Về đến nhà, múa gậy vườn hoang, tỏ rõ bản lĩnh anh hùng nơi xó bếp. Thần dân trông thấy, họ khinh bỉ mãi không thôi. Ðó là nói về tư cách của lũ đê tiện, “khôn nhà dại chợ”. 7/ Cứ coi các cháu phải đi bán dâm, chỉ là đồ chơi trong tay những thằng đàn ông. Xin hỏi ông: Làm đồ chơi trong tay con trai Việt và làm đồ chơi trong tay bọn đàn ông ngoại quốc, đằng nào đỡ nhục nhã hơn? Không dám mơ có lầu son, gác tía để hành nghề như nàng Kiều. Làm đồ chơi trong nhà nghỉ kín đáo và ngồi vạ vật bên đường, đằng nào làm cho nhà nước đỡ xấu mặt hơn? Không thể cấm được mại dâm. Vậy, hợp pháp hóa mại dâm + chăm sóc sức khỏe cho các cháu và để mại dâm lén lút, tự phát nguy cơ truyền nhiễm bệnh tật cao, đằng nào nhân đạo hơn? 8/ Tiếp xúc với những thứ chướng tai, gai mắt nơi nhà hàng, tôi không hề thích. Chính vì vậy, tôi và gia đình đầu tư vào làm thủy lợi, vào trồng trọt, vào chăn nuôi. Ai ngờ, tôi bị chính quyền CS đủ cả 4 cấp: Xã – Huyện – Thành phố – Trung ương câu kết với nhau lừa đảo, cướp đoạt trắng tay hơn chục tỉ VND. Mĩ miều, thì nói là “cả hệ thống chính trị” nhà các ông. Còn dân gian, đơn giản hơn nhiều. Chúng tôi nói rằng: “cả lò cả ổ” nhà các ông là 1 lũ khốn nạn, một lũ cướp ngày. Ông Chủ tịch có cách gọi nào khác, “đẹp” hơn để thay thế không? 9/ Thưa ông Chủ tịch, sau khi đọc những loạt bài của tôi, có 1 bác nào đó quan tâm, gọi điện hỏi tôi có bị cơ quan an ninh làm khó dễ gì không? Câu trả lời là chưa. Cứ như thể, chưa bao giờ có những bài như thế. Lí do thật đơn giản. Ðơn từ đòi tiền, tôi gửi các ông nhiều lần, nhiều cấp trong hơn chục năm rồi. Nhưng, chính quyền CS của các ông vẫn giả câm, giả điếc. Ðể tránh tiếp xúc, các ông học những con chuột cống, chui sâu vào trong hang. Bị hun bao nhiêu là khói, nhưng với bản lĩnh cao cường, các ông vẫn chưa chịu chui ra. Bởi, chui ra tiếp xúc là phải nói đến chuyện trả tiền. Ðối với các ông, thà bị nghe chửi, thà bị người khác hạ nhục, thậm chí bị chết vì ngạt khói, còn hơn là phải trả lại những đồng tiền ăn cướp. Ðây cũng là nét “đặc thù” rất riêng về Nhân quyền của chính quyền CS Việt nam. Tôi tin lần này, lượng khói mà tôi quạt vào hang vẫn chưa đủ “đô”, nên các ông chưa chịu chui ra đâu. Các ông vẫn coi như không có nó và hiển nhiên, các ông sẽ không sờ mó đến tôi cũng như cửa hàng của tôi. Về việc này, xin cảm ơn ông Chủ tịch trước. Nhưng, những lần sau, lượng khói sẽ tăng lên. Không chịu được thì hãy bò ra. Ðừng cố thủ. Chết, uổng. Lần sau, xin hầu chuyện ông Chủ tịch với đề tài “Dưới giác độ của nền văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa CS ở Việt nam, những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó”. Ðề tài này, cũng không đến nỗi khô khan lắm đâu. Nội dung của nó, tuy hơi dài, nhưng “Cơm ngon, (thì hãy) ăn làm nhiều bữa”. Lo gì. Ông có muốn nghe không? Có muốn cử những tay lí luận hàng đầu của đảng CS vào tranh biện công khai và thẳng thắn không? Xin ông: Chớ có cho đội ngũ Dư luận viên dốt nát cộng với mớ lí luận cùn nhập cuộc và nhớ đừng có dùng bạo lực như lũ khùng điên. Bọn chúng, khi đuối lí, chỉ có mỗi một cách, đó là giơ nắm đấm lên. Ðừng học lũ mất dạy đó, ông ạ. Chào ông. Nguyễn Tiến Dân
|
|
|
Post by BTN on Jun 8, 2015 14:21:30 GMT -6
Xin ĐỪNG TRÁNH XA CHÍNH TRỊ Iris Vinh Hayes, Ph.D. Tôi đã sinh ra và trưởng thành trên một đất nước mà tôi thường xuyên nghe từ miệng của những người lớn chung quanh nào là “đừng có dính vô chính trị mà khổ thân” hoặc “ai làm chính trị thì kệ họ đi” hoặc “học theo 3 cái tượng kia kìa, bịt mắt, bịt tai, bịt miệng lại!” hoặc “thật thà như vậy thì không nên dính vào chính trị” hoặc “làm chính trị phải gian hùng, phải thủ đoạn, phải ác độc” hoặc “chính trị rất dơ bẩn không phải là chỗ cho người hiền đức” . . . vân vân. Nói tóm lại là những bài học tôi được người lớn dạy bảo có thể tóm gọn trong vài chữ: hãy tránh xa chính trị. Những nhận xét của họ không phải là không đúng với sự thật. Nhưng không may chúng chỉ là những sự thật của một xã hội đã chìm ngập quá lâu trong bóng tối. Những khuyên răn của họ không phải là không có lý. Nhưng buồn thay chúng chỉ là cái lý của những người đã bị dìm quá lâu trong nếp sống vong thân. Thế nào là vong thân? Vong thân là khi tự thân đã đánh mất chính mình, đã không thể có được sự tự chủ và tự do, đã không được quyền làm người, đã không được sống như là một con người đúng nghĩa, đã trở thành vô cảm trước những diễn biến chung quanh. Trong môi trường như vậy thì làm sao mà không khổ, làm sao mà kẻ xấu ác không hoành hành, làm sao mà chính trị không dơ bẩn, làm sao mà người hiền không bị bóp chết. Câu hỏi quan trọng là: ai đã dung dưỡng những thứ xấu ác đó, ai đã để cho bóng tối áp bức tiếp tục phủ trùm lên đất nước, ai đã tiếp tay cho nếp sống vong thân? Không cần biết ai đã tạo ra những thứ xấu ác, không cần biết ai đã áp đặt những thứ xấu ác, không cần biết ai đã duy trì những thứ xấu ác, có một điều chắc chắn là CHÍNH TÔI ĐÃ DUNG DƯỠNG NHỮNG THỨ XẤU ÁC ĐÓ; CHÍNH TÔI ĐÃ ĐỂ CHO BÓNG TỐI PHỦ TRÙM ĐẤT NƯỚC; CHÍNH TÔI ĐÃ TIẾP TAY CHO NẾP SỐNG VONG THÂN. Vâng, chính là tôi, một con dân của tổ quốc. Chính là tôi, một thành viên của xã hội. Chính là tôi, một tác nhân của môi trường sống. Tại sao có thể là như vậy? Rất đơn giản. Tại vì là: KHI IM LẶNG TRƯỚC NHỮNG ĐIỀU XẤU ÁC, TÔI ĐÃ TRỰC TIẾP ĐỒNG LÕA. KHI CAM CHỊU CÚI ĐẦU TRƯỚC NHỮNG ĐIỀU XẤU ÁC, TÔI ĐÃ TRỰC TIẾP KHUYẾN KHÍCH. KHI TRÁNH XA CHỖ DIỄN RA NHỮNG ĐIỀU XẤU ÁC, TÔI ĐÃ TRỰC TIẾP MỞ RỘNG. Khi mà đại đa số công dân đều chỉ biết im lặng khuất phục trước độc tài chuyên chế, trước tham nhũng lũng đoạn, trước trấn lột cưỡng đoạt, trước dối gian bưng bít, trước gian ngoa xảo quyệt, trước khủng bố bạo hành, trước bất chính bất minh, trước tham lam tráo trở thì thử hỏi làm sao đất nước không đầy dẫy độc tài chuyên chế, tham nhũng lũng đoạn, trấn lột cưỡng đoạt, dối gian bưng bít, gian ngoa xảo quyệt, khủng bố bạo hành, bất chính bất minh, tham lam tráo trở Khi mà đại đa số quần chúng đều chỉ biết tránh xa chính trị để mặc tình cho kẻ xấu ác hoành hành thì thử hỏi làm sao nền chính trị của quốc gia không dơ bẩn, không xấu xa, không ác độc, không tà đạo, không chuyên chế, không nằm trong tay của bọn đầu trâu mặt ngựa??? Khi mà mỗi cá nhân không dám xác lập quyền lực của chính mình để tạo ra sức mạnh cộng hưởng giúp xác lập quyền lực của toàn dân thì thử hỏi làm sao một đảng cầm quyền không thao túng, không tự ngồi trên cả luật pháp, không ngang nhiên vơ vét tài nguyên của đất nước, không hút nạo máu mỡ của bá tánh, không khủng bố những tiếng nói đối lập, không đối xử tàn tệ với đồng bào ruột thịt hơn cả những kẻ ngoại bang đô hộ thuộc địa??? Sống trong một quốc gia, dầu muốn hay không muốn thì mỗi người dân trong quốc gia đó cũng đã tự nhiên tham gia vào nền chính trị của đất nước rồi. Chỉ có điều là tham gia để biến quốc gia đó thành một quốc gia lý tưởng, thành một nơi chốn đáng sống cho mỗi người và mọi người bằng cách tích cực xác lập quyền lực của người dân qua hành động cụ thể hay là tham gia để biến quốc gia đó thành địa ngục trần gian bằng cách im lặng, cúi đầu và lánh xa. Phải, tôi không ngại lập lại một lần nữa, “im lặng, cúi đầu, lánh xa” là cách tham gia chính trị để biến một đất nước thành địa ngục. Mãi cho tới ngày hôm nay tôi vẫn phải nghe từ miệng của những người chung quanh những lời tương tự, cũng với hàm ý “hãy tránh xa chính trị.” Nhiều thế hệ trước đã bị đầu độc với những lời khuyên vô trách nhiệm này. Thế hệ đương đại đang bị “mang niềng kim cô” với cụm chữ đầy răn đe này. Nếu không có sự thay đổi về nhận thức thì có lẽ những thế hệ mai sau cũng sẽ không khá hơn. Tôi thực sự ưu phiền và lo lắng. Với một tấm lòng vì tiền đồ của dân tộc, tôi xin mạn phép được hét to để mọi người, mọi thế hệ --trước kia, ngay bây giờ và mai sau--và mọi giai tầng của đất nước cùng nghe về một sự thật đơn giản: KHÔNG CÓ MỘT CÔNG DÂN NÀO SỐNG TRÊN ĐẤT NƯỚC CỦA MÌNH CÓ THỂ TRỐN LÁNH THAM GIA CHÍNH TRỊ, CHỈ CÓ SỰ CHỌN LỰA THAM GIA CHÍNH TRỊ BẰNG THÁI ĐỘ NÀO MÀ THÔI. Những đồng bào của tôi ơi, nhất là những người trẻ trong nay mai sẽ phải kê vai nâng cả một gánh sơ hà, xin đừng để cho kẻ xấu ác tiếp tục khủng bố bằng cụm chữ răn đe “hãy tránh xa chính trị.” Cũng đừng để cho những kẻ ươn hèn vô trách nhiệm nhồi sọ cả một thế hệ rường cột với cụm chữ “hãy tránh xa chính trị” để biến thành kẻ vô trách nhiệm như họ. Sự nhẫn nhục nào cũng phải có giới hạn. Khi mạng sống của dân đã bị coi thua súc vật, khi tài sản của dân đã bị tước đoạt dễ như lấy đồ trong túi, khi tôn nghiêm của dân đã bị chà đạp quá đáng thì GIỚI HẠN CỦA SỰ NHẪN NHỤC ĐÃ BỊ PHÁ VỠ. Đã đến lúc mọi người cần phải đứng lên cùng nhau tham gia vào nền chính trị của đất nước một cách tích cực và cụ thể để tái lập một cơ chế điều hành đất nước của dân, do dân và cho dân. Đã đến lúc mọi người cần phải đứng lên cùng nhau tham gia vào nền chính trị của đất nước một cách tích cực và cụ thể để tái lập một xã hội văn minh và thiện đức. Ở thời điểm lịch sử này toàn dân đang có cơ hội để giành lại NHÂN QUYỀN VÀ DÂN QUYỀN đã bị tước đoạt trong nhiều năm qua, hãy tham gia để XÁC LẬP QUYỀN LỰC CỦA NGƯỜI DÂN BẰNG CHÍNH SỨC MẠNH CỦA TOÀN DÂN và nói cho ĐCSVN biết rằng DÂN LÀ CHỦ CỦA ĐẤT NƯỚC NÀY chứ không phải họ. Hãy tham gia với quyết tâm “KHÔNG KHOAN NHƯỢNG CÁI XẤU ÁC” nhưng KHÔNG ĐỂ BỊ Ô NHIỄM BỞI HẬN THÙ. Hãy tham gia với MỘT TÌNH THƯƠNG LỚN và CHO MỘT ƯỚC MƠ LỚN. Con đường mà chúng ta cùng đi để XÁC LẬP QUYỀN LỰC CỦA NGƯỜI DÂN BẰNG CHÍNH SỨC MẠNH CỦA TOÀN DÂN chắc chắn là không bằng phẳng, nếu không muốn nói là có thể phải hy sinh cả tánh mạng. Trên con đường đó, chúng ta tuyệt đối không thể sử dụng bạo lực để đối kháng với bạo lực; tuyệt đối không thể để hận thù dẫn chúng ta vào con đường lập lại sai lầm lịch sử mà chính chúng ta đã từng là nạn nhân; tuyệt đối không thể để sự sợ hải biến chúng ta thành lũ người xấu ác mà chính chúng ta đang lên án họ. Những cái không thể này không phải là những ý nghĩ “lãng mạn trong đấu tranh” mà là một “tính toán chính lược” sẽ quyết định xác suất thành bại của một cuộc cách mạng, trong đó có cả nỗ lực kiến tạo một quốc gia lý tưởng sau khi quật ngã được chế độ độc tài. Như tôi đã từng nói trong bài Bát Chánh Kiến Cho 1001 Ghonim Của VN: Chỉ có tình thương lớn mới chuyển hóa được tâm thức con người và đưa cá nhân, chủng tộc, nhân loại vượt lên trên mọi dị biệt để hình thành một môi trường sống dung nạp hơn, phồn thịnh hơn, nhân bản hơn và an ninh hơn. Hãy dùng chính cái sức mạnh chúng ta có được mà họ không có để thắng. Họ có sức mạnh của bạo lực, chúng ta có sức mạnh của biển người phản kháng bất bạo động. Họ độc tài chuyên chế, chúng ta biểu dương dân chủ tự do. Họ khinh bạc nhân dân, chúng ta có lòng thành kính thể hiện qua sự tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Họ tàn nhẫn với dân đen, chúng ta có lòng từ mẫn thể hiện qua sự quan tâm và tương trợ. Họ chà đạp sĩ phu và trí thức, chúng ta tôn trọng lắng nghe dù là tiếng nói đối lập. Họ bán nước cầu vinh, chúng ta sắc son với tiền nhân giữ nước và dựng nước. Họ bịt mắt thiên hạ, chúng ta có thông tin và sự thật. Họ có ĐCSVN, chúng ta có toàn dân trong đó bao gồm cả cảnh sát, quân đội và CNV của bộ máy hành chánh. Họ có được ngọn roi của kẻ cầm quyền, chúng ta có được áo giáp lương tâm và nhiệt tình của toàn nhân loại trên thế giới. Họ sử dụng cương thi XHCN để tiếp tục phủ bóng tối lên đất nước, chúng ta mang quang huy của mặt trời chân lý “sống như con người” chiếu sáng khắp hang cùng ngõ hẹp. Họ chỉ có một kết quả duy nhất là phải đầu hàng trước sức mạnh của toàn dân, chúng ta có một chọn lựa đúng đắn là sẽ ôm vào vòng tay tất cả những người đã qui phục trước sức mạnh của dân. Họ chắc chắn sẽ tan rã, chúng ta chắc chắn sẽ có 1001 Ghonim của Việt Nam bước ra từ dân để hoàn thành ý nguyện của dân thứ ý nguyện đơn giản mà thiêng liêng: MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC SỐNG NHƯ MỘT CON NGƯỜI. Đã đến lúc mọi người cần phải đứng lên cùng nhau tham gia vào nền chính trị của đất nước một cách tích cực và cụ thể để tái lập một cơ chế điều hành đất nước của dân, do dân và cho dân. Đã đến lúc mọi người cần phải đứng lên cùng nhau tham gia vào nền chính trị của đất nước một cách tích cực và cụ thể để tái lập một xã hội văn minh và thiện đức. Và cho những ai còn e ngại, sao không thử bắt đầu với trách nhiệm nhỏ nhất như tác giả Nguyễn Ngọc Già đã viết trên Dân Luận: “Mỗi lần chúng tôi gặp nhau hàn huyên, tôi và anh ấy luôn nói về tình hình chính trị - xã hội, tôi cũng hay chia sẻ những bài viết của mình với anh ấy. Ban đầu anh ấy ngại ngùng và có vẻ lảng tránh, dần dần (sau cả năm trời) anh ấy bớt thái độ né tránh và quan tâm hơn. Tôi dấn thêm bước nữa, đề nghị anh ấy đọc bài của tôi, anh ấy bảo: "tôi yêu đất nước này, và cũng rất đau đáu với những bất công đầy rẫy trong xã hội, nhưng có lẽ tôi không có lý tưởng như anh", tôi trả lời: "không, đó không phải là lý tưởng, đó là trách nhiệm của chúng ta. Anh cứ coi như, trách nhiệm của tôi là viết, trách nhiệm của anh là đọc và truyền bá cho những người chung quanh. Hãy bắt đầu từ trách nhiệm nhỏ nhất", và anh ấy đồng ý.” Xin đừng tránh xa chính trị ! Iris Vinh Hayes, Ph.D.
|
|
|
Post by BTN on Jun 15, 2015 11:06:02 GMT -6
ĐỨC HƠN TÀI LÀ BẬC QUÂN TỬ TÀI HƠN ĐỨC LÀ KẺ TIỂU NHÂN
Thứ hai - 08/06/2015 09:27 - Tác giả : Tho Tho Vu
Trước kia, mỗi khi qua mặt được ai đó để đạt được chút gì, bạn bè sẽ trầm trồ: “khôn quá ta, dùng chút mánh lới là có được thứ mình muốn“, Nghe xong liền cảm thấy dương dương tự đắc nhưng khi đã trải qua nhiều chuyện trong cuộc sống, mới biết đó chỉ là khôn vặt tầm thường, về lâu dài, tài khôn vặt ấy chỉ gây tổn hại cho bản thân Làm người ở trong đời, chữ đức mới quan trọng lắm thay.
Trước đây không lâu, một chương trình truyền hình của Đài Loan với tên gọi “Cuộc đời sang giàu”, khách mời là nhà điều hành của một công ty rất nổi tiếng. Khi chương trình gần kết thúc, người dẫn chương trình đưa ra câu hỏi cuối: “Anh cho rằng nhân tố then chốt làm nên thành công của công ty là gì?” Trầm tư một lát, vị khách mời này cũng không trực tiếp trả lời mà bình tĩnh kể một câu chuyện: “12 năm trước, một chàng trai vừa tốt nghiệp liền sang Pháp, bắt đầu cuộc sống vừa đi học vừa đi làm. Thời gian dần qua, anh phát hiện nhà ga địa phương hầu hết đều có lỗ hổng, không có chỗ kiểm vé, cũng không có người kiểm vé, thậm chí ngay cả camera kiểm tra cũng rất ít. Dựa vào trí thông minh của mình, người thanh niên này tính toán được tỉ lệ trốn vé mà bị tra ra chỉ có 3/10.000. Anh rất đắc ý với phát hiện này của mình. Từ đó về sau, anh thường xuyên trốn vé. Anh còn biện hộ cho bản thân rằng, vì mình là học sinh nghèo mà, có thể tiết kiệm chút nào hay chút nấy. 4 năm qua đi, với tấm bằng đại học danh tiếng và thành tích xuất sắc, anh tự tin nộp đơn vào các công ty đa quốc gia, nhưng kết quả lại khiến anh hụt hẫng.
Những công ty này mới đầu đều rất nhiệt tình với anh, nhưng sau khi đọc qua vài thứ, liền nhẹ nhàng từ chối. Điều này thật sự khiến anh rất băn khoăn. Cuối cùng, anh đã viết một email với ngôn từ cầu thị, gửi đến bộ phận nhân sự của một trong những công ty đó với mong muốn được biết lý do không được nhận vào làm.
Một đêm nọ, anh nhận được email hồi đáp. “Chào anh Trần, chúng tôi đánh giá cao tài năng của anh, nhưng khi chúng tôi đọc dữ liệu thông tin về anh, thì thực sự rất tiếc rằng trên hệ thống hồ sơ ghi lại anh đã 3 lần trốn vé xe. Chúng tôi cho rằng điều này đã chứng minh 2 điểm: 1. Anh không tôn trọng quy tắc công cọng: Sau khi phát hiện ra lỗ hổng của nhà ga anh năng đi lại, anh đã cố ý lạm dụng. 2. Anh là người không đáng tin. Công ty của chúng tôi rất nhiều việc phải dựa vào sự tín nhiệm, bởi nếu anh phụ trách phát triển thị trường nào đó, công ty sẽ giao cho anh nhiều quyền tự quyết.
Để tiết kiệm chi phí, chúng tôi không thể thiết lập cơ cấu giám sát giống như hệ thống giao thông công cộng. Vì vậy chúng tôi không thể thuê anh, thật tình mà nói, ở quốc gia này, thậm chí toàn bộ liên minh Châu Âu, có lẽ anh sẽ không thể tìm được công ty nào đồng ý tuyển dụng anh”. Đến lúc này, chàng thanh niên mới tỉnh mộng, giá như biết trước hậu quả tai hại khôn lường anh đã không làm như vậy. Nhưng điều thực sự khiến anh chấn động là câu cuối cùng của nhà tuyển dụng, bởi câu nói ấy thể hiện một đạo lý rằng: Đạo đức thường có thể bù đắp cho tài trí, nhưng tài trí vĩnh viễn không bù đắp được cho đạo đức. Ngày hôm sau, anh lên đường về nước”.
Câu chuyện kể xong, hội trường yên lặng. Người dẫn chương trình băn khoăn hỏi vị khách mời: “Điều này có thể nói nên đạo lý thành công của anh?”. “ Có thể! Vì người trẻ tuổi trong câu chuyện này chính là tôi”.
Rồi anh dõng dạc nói: “Tôi có thể đi đến ngày hôm nay, chính bởi vì tôi đã biến ‘chướng ngại’ của ngày hôm qua thành ‘hòn đá kê chân’ cho ngày hôm nay”. Có lẽ đây chính là bài học đáng giá về thành công của vị giám đốc ấy.
Nhà sử học lừng danh Tư Mã Quang từng nói: “Đối với người tài, đức chính là vốn; còn người có đức, tài ắt tự sinh. Tài đức toàn vẹn là thánh nhân, tài đức cùng mất là người ngu ngốc, đức hơn tài là bậc quân tử, tài hơn đức là kẻ tiểu nhân”.
Người giỏi về lắt léo, cuối cùng đều là hại chính mình.
Tác giả bài viết: thotho vu Nguồn : HoaTinhThuong. net
|
|
|
Post by FTN on Jul 29, 2015 13:56:36 GMT -6
Ông Đại Sứ ơi. Cám ơn ông nhiều lắm. Nhưng ông có biết đất nước tôi còn nhiều đứa ngu lắm.
THƯ RẤT CẢM ĐỘNG CỦA ĐẠI SỨ PHÁP TẠI SÀIGÒN Đại sứ Pháp Jean-Marie Mérillon NGÀY 1 THÁNG 5 NĂM 1975
Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok, tôi nhìn xuống Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi thương tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới đất. Tôi như người bại trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người bại trận, một người bạn đã không chia xẽ mà còn bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải gánh chịu hết tất cả... trong những ngày sắp tới.
Việt Nam và tôi có rất nhiều kỷ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở này. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi xin lỗi người Việt Nam. Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vãn được nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm giao.
Năm 1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ chối với lý do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài Gòn đã mất, tôi trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được người ta lần thứ hai, làm sao lừa dối được người ta lần thứ ba?
Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương… Sau hết, chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa thua cộng sản. Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Mỗi năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi, chúng tôi cùng cầu nguyện cho người Việt Nam đạt được nền hòa bình theo sở nguyện của họ. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi dân tộc Việt Nam.
Jean-Marie MÉRILLON Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam
|
|
|
Post by Le Bui on Jul 30, 2015 11:00:16 GMT -6
Về cuộc tranh chấp hiện nay trên Biển đông và biển Nhật bản
“Small Reefs, Big problems: Asian coast guards are in the front line of the struggle to check China”
The Economist” số ngày 25-31 /7/ 2015 - Trần Bình Nam phóng dịch
Hiện nay trên biển Nhật bản, các hải đội tuần duyên (coast guards) của Trung quốc và Nhật bản vờn nhau như chơi trò cút bắt. Cứ đều đặn10 ngày hay một tuần một lần, sáng sớm một hải đội tuần duyên nhỏ của Trung quốc đến chờn vờn chạy lấn vào 12 hải lý của đảoSenkaku (Trung quốc gọi là đảo Diaoyu) rồi đến khoảng trưa bộ ngoại giao Nhật bản ra thông cáo phản đối Trung quốc vi phạm hải phận. Mỗi lần tàu tuần duyên Trung quốc xuất hiện, tàu tuần duyên Nhật bám sát cảnh cáo Trung quốc, và tàu tuần duyên Trung quốc chạy một hồi cho đã rồi rút lui. Trò chơi cút bắt này so với cường độ đụng chạm tưởng chừng như Trung quốc và Nhật bản sắp đánh nhau tại đó năm 2012 là một dấu hiệu hai bên đều muốn tránh căng thẳng. Trung quốc xuống thang vì Nhật bản không phải là nước dễ bị bắt nạt. Sau lưng tàu tuần duyên trang bị vũ khí nhẹ hải quân Nhật lúc nào cũng sẵn sàng để yểm trợ. Hơn nữa Hoa Kỳ cho biết nếu có đụng độ giữa Trung quốc và Nhật bản Hoa Kỳ sẽ đứng về phía Nhật bản. Tại biển Nhật bản thì vậy, nhưng tại Biển đông trong vùng quần đảo Trường Sa đang tranh chấp với Việt Nam và Phi luật tânTrung quốc không hiền lành như vậy. Việt Nam và Phi luật tân yếu hơn Nhật và Hoa Kỳ không có một cam kết bảo vệ nào dứt khoát như đối với Nhật bản.Từ khi Hoa Kỳ rút khỏiViệt Nam, nhất là từ năm 1992 rút khỏi căn cứ Subic Bay của Phi luật tân, Biển đông là một khoảng trống quyền lực .Trong năm qua Trung quốc đã ngang nhiên kéo dàn khoang dầu vào vùng Đặc quyền Kinh tế (Exclusive Economic Zone – EEZ) của Việt Nam. Và trong nhiều năm qua đã âm thầm đắp các đảo tí hon hay các mỏm đá nhỏ trong vùng Trường Sa thành những căn cứ. Sự phát triển hải quân nước sâu (TBN: hải quân có khả năng hoạt động trên đại dương xa căn cứ đất liền) của Trung quốc làm cho Việt Nam và Phi luật tân lo âu, nhất là khi ông Tập Cận Bình luôn nhắc đến chiến lược của Trung quốc là “lớn mạnh trong hòa bình” và “cân bằng quyền lực giữa các nước lớn” xem như đối với Việt Nam và Phi luật tân là chuyện nước nhỏ không đáng kể. Tại Bắc Kinh cũng như tại Hoa Thịnh Đốn, các nhà chiến lược không ngừng bàn tán về “cái bẫy Thucydides” là câu chuyện đánh nhau giữa hai nước Athens và Sparta vào thế kỷ thứ 5 trước công nguyên do sử gia Thucydides ghi lại. Sparta là thế lực đương thời, trong khi Athens là thế lực đang lên. Sparta lo lắng và đánh phủ đầu Athens. Người ta lo rằng một nước đang ở thế siêu cường (như Hoa Kỳ hiện nay) sẽ đụng độ với một siêu cường đang lên (như Trung quốc). Các chiến lược gia Nhật bản lại dùng một hình ảnh so sánh khác. Nhật bản nói sự phát trển hải quân nước sâu của Trung quốc và sự nóng vội lấn biển của Trung quốc hiện nay sẽ sinh ra chiến tranh không khác gì sự phát triển bộ binh và sự nóng vội chiếm đất của Nhật bản trong thập niên 1930, 1940 đã sinh ra cuộc đụng độ Thái bình dương giữa Hoa Kỳ và Nhật bản . Hiện nay Trung quốc dấu kỹ vũ khí, và đẩy mạnh sự tranh chấp trên mặt trận ngoại giao, vận động sử gia bênh vực, vẽ họa đồ đáy biển, đắp đảo xây dựng cơ sở vật chất mà Trung quốc nói là để phục vụ sinh hoạt của ngư dân như đèn pha, cảng tránh bão, phương tiện cứu hộ … Nhưng mới đây Hoa Kỳ đã hé cho thế giới thấy các xây dựng, đặc biệt trên hòn đá Chữ thập (Fiery Cross Reef) gồm một phi đạo dài 3km cho máy bay quân sự đáp, nhiều kho có mái che cho máy bay phản lực đậu và những dàn súng phòng không. Các sĩ quan hải quân Hoa Kỳ cho rằng các cơ sở quân sự này chỉ là “những mẫu hạm không chạy được” trong trường hơp chiến tranh sẽ bị hải quân Hoa Kỳ đánh chìm trong nháy mắt. Nhưng nếu chưa bị đánh chìm (vì chưa có chiến tranh) thì các cơ sở vật chất này vẫn giúp Trung quốc biểu dương sức mạnh trên Biển đông . Đường 9 đoạn bao gồm hầu hết Biển đông do Trung quốc đơn phương vẽ là đầu mối tranh chấp với các nước chung quanh. Bên trong đường 9 đoạn có nhiều đảo nhỏ và nhiều cụm đá ngầm của Việt Nam và Phi luật tân. Hoa Kỳ không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp ai làm chủ mỏm đá nào chừng nào không ai đụng chạm đến quyền lưu thông trong vùng biển và trên vùng trời Biển đông của Hoa Kỳ và của thế giới nói chung. Thỉnh thoảng Hoa Kỳ cho máy bay thám thính quân sự bay gần các đảo mới đắp của Trung quốc để nhắc cho Trung quốc biết lập trường của Hoa Kỳ. Trung quốc không phải là nước đầu tiên xây dựng cơ sở vật chất tại Trường Sa nhưng sự xây cất quy mô của Trung quốc làm cho cuộc tranh chấp càng ngày càng khó giải quyết. Lời hứa của Trung quốc sẽ cùng với các quốc gia chung quanh Biển đông soạn thảo một “Quy tắc ứng xử” sẽ chẳng bao giờ thực hiện được. Và các nước Đông nam á không có sự lựa chọn nào khác hơn là tìm thế đối trọng nơi Hoa Kỳ và trang bị thêm vũ khí . Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đang trình quốc hội thông qua một bộ luật cho phép quân đội Nhật rộng tay hành động hơn như hợp tác với hải quân Hoa Kỳ tuần hành trên Biển đông và bán rẻ 10 tàu tuần duyên cho Phi và 6 tàu cho Việt Nam. Theo ông Narushige Michishita thuộc Viện Nghiên cứu Chính sách (National Graduate Institute for Policy Studies) ở Tokyo thì đây là hành động chống sự đe dọa của Trung quốc . Trong khi đó quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ càng lúc càng cải thiện, và Việt Nam đang mua thêm nhiều vũ khí của Liên bang Nga. Phi luật tân thì ký thỏa ước cho phép Hoa Kỳ trở lại căn cứ Subic Bay và vài căn cứ khác và đang chuẩn bị ngân sách cải thiện quân đội. Hiện nay, tòa án quốc tế ở Le Havre đang xem xét vụ Phi luật tân kiện Trung quốc để xem - theo văn bản của Luật Biển UNCLOS - Trung quốc có quyền đòi chủ quyền 12 hải lý và rộng hơn nữa là 200 hải lý đặc quyền kinh tế chung quanh các hòn đảo mới đắp không. Tòa Le Havre không có thẩm quyền phán quyết ai làm chủ cụm đá nào, nhưng một phán quyết bất lợi cho Trung quốc đối với quyền xử dụng mặt biển và đáy biển chung quanh cũng làm cho Trung quốc bớt hung hăng. Trung quốc nói không chấp nhận phán quyết của tòa Le Havre, nhưng gián tiếp theo dõi vụ kiện bằng cách gởi đến tòa các biện minh trạng cần thiết. Còn chuyện Đài Loan. Đài Loan nằm giữa biển Nhật bản và Biển đông. Tình hình eo biển Đài Loan trong nhiều năm qua êm êm nhờ chính sách hòa hoãn của tổng thống Mã Anh Cửu (Ma Ying-jeou) thuộc đảng Trung Hoa Dân Quốc (KMT). Nhưng nếu qua cuộc bầu cử tổng thống đầu năm 2016 tới, bà Thái Anh Văn (Tsai Ingwen) thuộc đảng Dân Chủ Tiến bộ (Democratic Progressive Party) đắc cử tình hình có thể đổi khác. Để Hoa Kỳ yên tâm bà Thái Anh Văn cho biết bà vẫn sẽ giữ lập trường ôn hòa với lục địa, nhưng Bắc Kinh không tin bà . Về hướng Biển đông Trung quốc và Đài Loan có chung lập trường là các hải đảo ở đó thuộc về nước Trung quốc. Năm 1945 khi Nhật đầu hàng, chính quyền Quốc Dân Đảng đã tiếp thu các hòn đảo Nhật chiếm đóng. Nhưng đối với đường 9 đọan, Đài Loan không dứt khoát đòi hỏi như Bắc kinh đang làm, mặc dù đường này do chính quyền KMT vẽ năm 1946 trước khi bị Mao đẩy ra Đài Loan. Hoa Kỳ từng thúc đẩy tổng thống Mạc Anh Cửu công khai lập trường đối với đường 9 đoạn để làm suy yếu đòi hỏi đơn phương của Trung quốc. Và mới đây tổng thống Mã Anh Cửu tuyên bố Đài Loan chỉ đòi chủ quyền 12 hải lý chung quanh các đảo hay cụm đá mình đang làm chủ nhưng không đòi hỏi vùng biển nằm bên trong đường 9 đoạn. Nhưng ngoại giao và các lời tuyên bố tế nhị của nó không làm thay đổi thực tế của sức mạnh quân sự tại chỗ. Các chuyên viên quân sự nghĩ rằng: Đài Loan đã mất khả năng tự bảo vệ trong nhiều năm qua trước sự lớn mạnh của Trung quốc; và Nhật bản hiện còn khả năng bảo vệ các hòn đảo đất nhà ở phía nam nhưng sẽ không quá 10 hay 15 năm nữa. Cho nên câu hỏi thiết thực là quốc gia nào có khả năng gây thiệt hại nặng nề cho Trung quốc để Trung quốc không dám đánh Đài Loan hay Nhật bản? Ai cũng hiểu câu hỏi này dành cho Hoa Kỳ. Hoa Kỳ còn có khả năng và ý chí thay đổi cán cân quân sự trong vùng Tây Thái bình dương không? 20 năm trước khi Trung quốc bắn hỏa tiễn đe dọa sát bờ Đài Loan Hoa Kỳ đã gởi tới eo biển Đài Loan hai hải đội mẫu hạm đặc nhiệm để cảnh cáo Trung quốc. Lần này Hoa Kỳ còn hành động như vậy không? Không một nhà chiến lược nào trả lời dứt khóat là “Có”. Bàn cờ quân sự tại Tây Thái bình dương luôn luôn thay đổi. Hiện nay Trung quốc đang phát triển một hệ thống “chống xâm nhập” (Hoa Kỳ đặt tên là hệ thống A2/AD – Anti-Access/Area Denial) ngăn không cho các mẫu hạm của Hoa Kỳ đến sát rào phòng thủ thứ nhất của Trung quốc (chạy dọc từ Nhật bản, đến Đài Loan, qua Phi luật tân đến Indonesia). Và Hoa Kỳ đang nghiên cứu vũ khí để chọc thủng hàng rào chống xâm nhập này. Và lúc này là lúc các quốc gia lân cận Trung quốc nghĩ đến hàng rào phòng thủ của riêng mình chống sự xâm nhập của hải quân Trung quốc . Giáo sư Toshi Yoshihara thuộc Đại học hải chiến Hoa Kỳ (US Naval War College) nghĩ rằng Nhật bản cần chú trọng đến hỏa tiễn đặt trên đất liền chống chiến hạm, tàu ngầm, mìn, chiến thuật đánh “du kích biển” bằng tàu nhỏ vận tốc cao có trang bị hỏa tiễn. Hoa Kỳ cũng đang khuyến khích Đài Loan trang bị như vậy. Nhật bản nghĩ rằng sự bảo vệ Đài Loan liên hệ chặt chẽ với an ninh của Nhật và chuyên viên Andrew Krepinevich thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Ngân sách ở Hoa Thịnh Đốn (Centre for Strategic and Budgetary) cũng đang khuyến cáo Hoa Kỳ giúp Phi luật tân phương tiện tự bảo vệ các hải đảo đất nhà. Đây là chiến lược “Nếu không thể đánh gục được kẻ địch thì hãy chận đường đừng cho kẻ địch đi xa”. Nhưng nếu áp dụng chiến lược này trong cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trong vùng Tây Thái bình dương thì chẳng khác gì nhìn nhận trước sau biển Nhật bản và Biển đông cũng sẽ là ao nhà của Trung quốc và Hoa Kỳ cùng các đồng minh chỉ đang lo sao chận không cho Trung quốc ra khỏi ao nhà. Chiến lược này hạ sách vì chỉ gây ra căng thẳng trong vùng Tây Thái bình dương. Thượng sách là thuyết phục Trung quốc hợp tác với Nhật bản và các nước Đông nam á để cùng khai thác tài nguyên thiên nhiên, cùng phát triển và cùng hưởng lợi, nhưng luôn luôn cứng rắn nếu Trung quốc hành động ngang ngược. Trung quốc cũng có những khó khăn nội bộ và cũng phải nhìn trước nhìn sau đối với áp lực và dư luận quốc tế, và gần đây một số chiến lược gia của Trung quốc cũng nghĩ rằng thời gian qua Trung quốc đã quá nóng vội trong việc gồng mình ra biển nên Trung quốc có vẻ đang kìm lại. Trung quốc nói đã ngưng chương trình nới rộng các mỏm đá Trường Sa. Nhưng có thể đây chỉ để làm nguội tình hình trước chuyến công du Hoa Kỳ của ông Tập Cận Bình vào tháng Chín tới.
Vào lúc này, không có chỉ dẫn nào cho thấy sẽ có đụng độ vũ trang trên biển Nhật bản hay Biển đông. Điều đáng lo là các các hải đội tuần duyên của hai bên nghênh nhau hằng ngày trên biển đặc biệt giữa Trung quốc và Nhật bản chung quanh đảo Senkahu trong một hoàn cảnh nào đó không kìm được tay súng ./.
Trần Bình Nam (phóng dịch) July 28, 2015 binhnam@sbcglobal.net
|
|
|
Post by Phùng Quang Thanh on Aug 3, 2015 16:11:19 GMT -6
Thành quả hỗ tương: Ấn Quang-Cộng Sản
Người ta có thể tóm lược rất nhiều thành quả trong cuốn sách của cộng sản Việt Nam nhận cuộc đấu tranh của phật giáo từ 1963 làm thành quả của “đảng ta”. Ví dụ, cuốn “Phong Trào Tranh Đấu Chống mỹ Của Giáo Chức, Học Sinh, Sinh Viên Sài Gòn” của Hồ Hữu Nhật do nhà xuất bản “thành phố Hồ Chí Minh” phát hành năm 1984:
“Dưới trào Ngô Đình Diệm:
“Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hậu thuẫn vững chắc của nhiều tổ chức: Gia đình Phật tử, Sinh viên Phật tử, Học sinh Phật tử, Thanh niên Phật tử. Năm 1962 gia đình Phật tử tập hợp được 200 trăm ngàn người, năm 1964 có 400 ngàn . Đảng đã có cơ sở trong các tổ chức đó. Các chùa, trường Bồ Đề, Viện Hóa Đạo, trở thành trung tâm đấu tranh và phát xuất những cuộc mít tinh biểu tình chống ngụy quyền (trang 88-89)”.
“Sau khi Diệm đổ:
“Cuộc đấu tranh chính trị sôi sục và quyền chủ động phần nào trong tay Phật giáo, nhưng đảng ta đã chỉ đạo cơ sở kịp thời tham gia hỗ trợ, nâng khí thế phong trào lên với qui mô toàn quốc (trang 98)”.
“Ngoài ra ta cũng nắm được ban chấp hành Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh (nhiệm khóa 1966-1967). Chủ tịch Hoàng Tiến Dũng, Tổng thư ký Phan Long Côn, một trung tâm công khai, có uy tín trong sinh viên Phật tử và đồng bào Phật tử cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Đối với tổ chức cấp cao nhất của Phật giáo, đảng ta đã mời Hòa thượng Thích Thiện Hoa ra tranh cử và Hòa thượng đã đắc cử Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (trang 106).
HT Thích Thiện Hoa
“Nhân Lễ Phật đản 5.5.1966, tại Viện Hóa Đạo, học sinh, sinh viên cắm một băng giấy trên chiếc xe Mỹ bị họ đốt cháy: “Đây, kết quả 13 năm viện trợ Mỹ !”, nhiều tấm bảng dựng trước Viện Hóa Đạo vẽ hình châm biếm Tổng thống Mỹ Giôn Xơn, khẩu hiệu chống khủng bố trong cuộc đấu tranh ngày 20.5.1966: “Mạng người Việt Nam không thể đổi bằng đô la và bom đạn Mỹ - Rút ngay quân đàn áp ra khỏi Đà Nẵng …”.
Bên ngoài, từ ngày 3 đến ngày 10.6.1966 , Phong trào Bàn thờ phật xuống đường, gây cản trở giao thông, làm rối sào huyệt cuối cùng của địch, 10 xe Mỹ bị đốt trong đợt này (trang 130)”.
Đó là tại Sài Gòn do chính cộng sản Việt Nam khai ra. Sài Gòn là trung tâm quyền lực và quốc tế của Việt Nam Cộng Hòa, ảnh hưởng của đạo Phật không nhiều, Việt cộng công khai xâm nhập hàng ngũ Phật giáo, còn tại các tỉnh miền Trung, nhất là “Liên khu 5” cũ của Việt Minh, Việt cộng làm mưa làm gió đến cỡ nào trong các tổ chứ Phật giáo.
Sự giống nhau ở phương cách đấu tranh, sự lẫn lộn giữa thành quả đạt được của Việt cộng và phe phái đội lốt Phật giáo đã khiến nhiều người nghĩ Phật giáo là Việt cộng, coi Thích Trí Quang như một cán bộ cao cấp của Việt cộng. Đức Quốc trưởng Bảo Đại đã viết trong cuốn: Con rồng Việt Nam:
“Vậy thì ai đã xúi dục họ gây loạn, ai ? Họ ở đâu tới ? Làm sao mà biết được nếu họ từ Hà Nội vào hay từ Bắc Kinh tới ?” (trang 9).
Họ là ai ? Vì họ không nói ra, tôi chỉ còn cách suy đoán và nghĩ rằng các chính khách tăng lữ muốn xoay chiều lịch sử Việt Nam, mong cho Việt Nam độc đạo, độc tôn, tăng lữ có vai trò lãnh đạo và thống trị như ở Iran. Nếu quả đúng như vậy, tôi báo động để mọi người Việt Nam phải cương quyết chống lại như đã chống lại chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản Việt Nam rồi phải sập, chúng ta phải chuẩn bị đương đầu với những vấn đề hóc búa của quê hương ngày nay.
Tôi nghĩ rằng, những tăng lữ chính khách của Phật giáo chưa bỏ tham vọng muốn đạo mình trở thành độc tôn bằng sự đồng hóa với quốc gia. Mới đây, tôi đọc lời phát biểu của “Hòa thượng” Thích Huyền Quang trong tang lễ của “Hòa thượng” Thích Đôn Hậu, đoạn văn này như sau:
“Cơ sở của giáo hội (Phật giáo) là nông thôn, thành thị, cao nguyên và hải đảo”.
Đây là đối tượng của quốc gia chứ không không phải của đạo giáo. Đạo giáo muốn nhập nhằng đồng hóa với quốc gia bằng cách coi quốc gia như giáo hội của mình theo kiểu mẫu của Iran. Ngày nào đó, nếu điều này trở thành sự thực thì thật là điều bất hạnh cho dân tộc Việt Nam vậy.
Tôi xét xử
Có một tòa án vượt lên trên tất cả các tòa án của xã hội loài người, là tòa án lương tâm. Tòa án ấy, nằm trong tận đáy lòng của mỗi người và mỗi người tự làm quan tòa cho chính mình, để xét xử những việc đã và đang xẩy ra mà mình biết được. Ý thức về sự công bằng, lòng kính trọng lẽ phải là căn bản của mọi công lý. Công lý ấy vượt thời gian, vượt không gian, không tùy thuộc vào chủng tộc hoặc văn hóa xã hội: Công lý bất diệt nội tại trong mỗi con người.
Người ta đã kết tội Tổng thống Ngô Đình Diệm những cái “tội” như: “độc tài gia đình trị, tội kỳ thì và đàn áp Phật giáo” và sau cùng gần như bất lực, họ cố tìm cho ra một vài khuyết điểm của đời sống cá nhân. Có một cái “tội”, mà theo tôi là “tội” chính mà họ không nói ra: “Ngô Đình Diệm là người Công Giáo tốt, xử Ngô Đình Diệm là xử cả Giáo hội Công Giáo”.
Cụ Đoàn Thêm viết:
“Không một văn kiện hay một huấn thị nào ấn định khuyến cáo các nghi thức và cử chỉ với người lãnh đạo; tôi chỉ thấy ông ra lệnh không được gọi ông bằng Cụ. Ông không hề ngỏ ý bắt đứng dậy chào ông trước khi coi phim hay nghe hát. Không bao giờ ông đòi hỏi tổ chức Thánh Bổn Mạng hay sáng tác cho ông bản nhạc suy tôn”.
Xem thế, những việc điếu đóm, suy tôn… ông Diệm không phải do sự “kiêu căng, hợm hĩnh” của ông mà do bọn vô liêm sĩ nịnh bợ. Bọn ấy chính là bọn phản lại ông Diệm sau này.
Về nếp sống của Tổng thống Ngô Đình Diệm:
Sĩ quan Lê Công Hoàn, tùy viên của ông Diệm khi bị quân “cách mạng” bắt đi, bị hỏi rằng: “Có nhìn thấy đàn bà nào vào phòng riêng của ông Diệm ? Tổng thống Diệm có giao du với bà Nhu hay không ?”.
Sĩ quan Lê Công Hoàn trả lời:
“Tôi quả quyết không bao giờ có chuyện như vậy. Nếu có mà tôi bảo là không, tôi xin chịu mất cái đầu.
“Tổng thống Ngô Đình Diệm ở trong một căn phòng riêng, ngủ trên tấm đi-văng gỗ. Ông già Ẩn tối chăng màn, sớm tháo gỡ. Tổng thống ăn riêng, đầu bếp của ông rất nhàn hạ: sáng ông điểm tâm bằng cháo trắng với dưa chua hoặc cá thu kho mặn, trưa thường dùng trái cây hoặc rau sà-lát trộn dấm hoặc súp-lơ; bắp cải luộc. Bữa ăn chính của ông là bữa tối. Thứ cơm ông dùng là cơm gạo lức đỏ… ông ăn như một người trung lưu của xứ Quảng Bình hay xứ Huế. Ông không uống được rượu (13)”.
Đọc những lời chứng trên, người ta nghĩ đời sống riêng tư của Tổng thống Ngô Đình Diệm quá đơn sơ, ông xứng đáng là đệ tử của Thánh Gandhi.
Những kẻ thù nghịch với Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thất bại không thể tìm ra một lỗi lầm nhỏ nào trong cuộc đời tư khiêm tốn và nghèo khó của ông.
Bằng những chứng cớ trình bày ở trên:
- Không ai tìm thấy một tội phạm hình sự nào trong suốt cuộc đời của ông Diệm.
- Không ai tìm thấy những điều đáng chê trách trong cuộc đời của ông Diệm.
- Ông Diệm tận tụy phục vụ quốc gia, đặt lợi ích của đất nước lên trên mọi sự.
Bởi đó,
- Tổng thống Ngô Đình Diệm rất xứng đáng được tôn vinh là nhà ái quốc.
- Tổng thống Ngô Đình Diệm xứng đáng được xem là người công chính.
Thế mà,
Những ai đã cố tình giết chết ông
Những ai nhẩy múa trên xác chết của ông
Những kẻ đã cố tình bôi bẩn cuộc đời ông
Những kẻ ấy đều phải bị phán xét theo lẽ công bằng. Đó là công lý ngàn đời, dù Đông hay Tây, dù tín ngưỡng nhà Phật hay nhà Chúa, nhân loại đều có mẫu số chung về thiện-ác.
Cựu Thẩm Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh
|
|
|
Post by Phùng Quang Thanh on Aug 4, 2015 9:55:46 GMT -6
Tin cộng sản là bán lúa giống !!!
Trung Nam Hải đang toan tính gì với con bài Nguyễn Tấn Dũng?
Lê Anh Hùng
01.02.2015
Kết cục của chế độ cộng sản
Chủ nghĩa cộng sản là một sản phẩm quái thai trong dòng chảy của lịch sử nhân loại. Dĩ nhiên, như một quy luật tất yếu, nó đã và đang bị lịch sử vứt vào sọt rác.
Thành trì của chủ nghĩa cộng sản thế giới là Liên Xô đã sụp đổ cách nay ¼ thế kỷ. Giờ đây, số quốc gia lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm hệ tư tưởng chính thống chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay: Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba và Lào.
Cùng với xu thế dân chủ hoá trên toàn thế giới, người dân ở các quốc gia cộng sản còn lại đó đã bắt đầu thức tỉnh và lên tiếng đòi tự do, dân chủ và quyền con người chính đáng của mình. Việc Mỹ và Cuba vừa tuyên bố bình thường hoá quan hệ sau hàng thập kỷ ở trong trạng thái đối đầu là dấu hiệu mới nhất minh chứng cho xu thế không thể đảo ngược ấy.
Quá trình mở cửa hội nhập với thế giới trong bối cảnh cuộc cách mạng Internet và cách mạng truyền thông xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc là nhân tố quyết định tạo ra những biến chuyển lớn lao trong lòng xã hội Việt Nam thời gian qua.
Ngày càng nhiều người dân Việt Nam công khai lên tiếng đòi xoá bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, điều khoản hiến định vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng CSVN đối với nhà nước và xã hội. Điều mà chỉ mới cách đây mấy năm ít ai dám nghĩ tới thì nay người ta đã công khai bày tỏ thái độ. Đặc biệt, xu thế này ở Việt Nam lại diễn ra trong bối cảnh nhà cầm quyền cộng sản gia tăng chính sách đàn áp nhằm vào những tiếng nói đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
“Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt.” Nay thì tiếng nói đòi đổi thay không chỉ vang lên trong đám thường dân, mà ngay cả trong giới cầm quyền cũng đã xuất hiện những lời lẽ bóng gió về đòi hỏi tất yếu đó.
Toan tính của Bắc Kinh
Hàng ngàn năm qua, Trung Quốc chưa lúc nào nguôi tham vọng thôn tính Việt Nam. Ngay cả trong những ngày tháng “mặn nồng” nhất của mối quan hệ hữu nghị “vừa là đồng chí, vừa là anh em” giữa hai nước, họ cũng không một phút giây sao nhãng “sứ mạng cao cả” đó.
Cố nhiên, Bắc Kinh thừa khôn ngoan và thực tế để hiểu rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam không tránh khỏi sụp đổ trong vài năm tới.
Khi sụp đổ tất yếu ấy diễn ra, chính quyền hậu cộng sản tại Việt Nam có nhiều khả năng sẽ là một chính thể dân chủ đi theo quỹ đạo của Mỹ và phương Tây. Đơn giản, người dân Việt Nam đã quá chán ngán với chế độ độc tài, còn Trung Quốc thì chưa bao giờ là niềm tin của họ, ngoại trừ những tên Việt gian bán nước.
Cơ may lớn nhất cho Trung Quốc lúc đó là nhân lúc Việt Nam rơi vào khoảng trống quyền lực, họ sẽ phát động một cuộc tấn công chớp nhoáng nhằm vào Trường Sa hòng kiểm soát hoàn toàn Biển Đông.
Để ngăn ngừa một Việt Nam hậu cộng sản đi theo quỹ đạo của Mỹ, việc Trung Quốc đưa quân vào Việt Nam phối hợp với đội quân Hán tặc và Việt gian tại chỗ là một khả năng thực tế, nhất là khi Trung Quốc đã và đang tìm cách khống chế một số vị trí hiểm yếu về an ninh quốc phòng ở Việt Nam như các khu rừng đầu nguồn ở một số tỉnh, Vũng Áng – Sơn Dương (Hà Tĩnh), Tây Nguyên (qua dự án khai thác bauxite), Hải Vân (qua hai dự án du lịch của người Hoa), Ninh Thuận (qua dự án điện hạt nhân Ninh Thuận do PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải làm Trưởng ban Chỉ đạo Nhà nước), cáccăn cứ quân sự dưới hình thức dự án kinh tế trá hình ở Lào và Campuchia, v.v.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa quân vào nước khác ẩn chứa nhiều rủi ro, nhất là với một quốc gia có truyền thống chống Trung Quốc như Việt Nam. Trung Quốc hoàn toàn có thể bị sa lầy và dễ dàng đánh mất vị thế siêu cường, thậm chí bước sa chân đó có thể biến thành cơ hội “ngàn năm có một” để Mỹ và phương Tây xâu xé tanh bành một Trung Hoa Đại Hán đang ngày càng cho thấy là vấn đề lớn nhất của cả thế giới.
Thậm chí, ngay cả khi Trung Quốc đánh chiếm được Trường Sa thì chính phủ hậu cộng sản ở Việt Nam chắc chắn sẽ ở vào thế đối đầu với Trung Quốc. Lúc ấy, với sự hậu thuẫn của Mỹ và phương Tây, một cuộc chiến trường kỳ của Việt Nam hòng giành lại Trường Sa là khả năng gần như chắc chắn Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Chưa biết thắng thua thế nào, nhưng cái giá mà Trung Quốc sẽ phải trả là không hề nhỏ.
Chính vì vậy, kịch bản khả quan nhất cho Trung Quốc trong bối cảnh chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam sắp sụp đổ là dựng lên một chế độ độc tài hậu cộng sản giống như Nga, trong đó nhân vật sắm vai “Putin của Việt Nam” là kẻ mà Trung Quốc dễ dàng khống chế và thao túng.
Nếu điều này xẩy ra, ngoài biển thì Trung Quốc có thể tiếp tục quá trình thôn tính Trường Sa theo chiến thuật “tằm ăn dâu” sở trường, trước phản ứng lấy lệ của lãnh đạo Việt Nam, cho đến khi họ kiểm soát hoàn toàn Trường Sa và đặt Mỹ và phương Tây vào tình thế đã rồi; trên đất liền thì Trung Quốc sẽ tiếp tục khống chế các vị trí các vị trí xung yếu về an ninh – quốc phòng nhằm khi chiến sự xẩy ra thì sẵn sàng cho phương án chia cắt Việt Nam thành nhiều phần mà không cần phải tốn nhiều công sức, thậm chí chỉ cần sử dụng lực lượng trá hình tại chỗ; và đặc biệt, nền kinh tế Việt Nam sẽ đi đến chỗ lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, tiếp nối quá trìnhvẫn đang diễn ra nhiều năm nay.
Một khi bộ máy lãnh đạo chóp bu hoàn toàn bị thao túng, các vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng trên cả nước bị khống chế và nền kinh tế trở thành “một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc”, Việt Nam coi như lọt hẳn vào quỹ đạo của Trung Quốc và việc đi đến chỗ trở thành một Tây Tạng hay Tân Cương mới của Đại Hán chỉ còn là vấn đề thủ tục.
Tại sao lại là Nguyễn Tấn Dũng?
Vấn đề lúc này đã trở nên rõ ràng: Ai sẽ là nhân vật sắm vai “Putin của Việt Nam” trong kịch bản thâm độc và xảo quyệt thể hiện đúng bản chất của Trung Quốc như trên? Xin thưa, nhân vật đó không ai khác hơn đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Tại sao lại là Nguyễn Tấn Dũng, nhân vật vẫn có những lời lẽ mạnh mẽ nhất nhằm vào Trung Quốc trong ban lãnh đạo Việt Nam hiện nay? Và chẳng phải bản thân Hoàn Cầu Thời Báo từng mấy lần lên tiếng “cảnh báo”về lập trường “bài Hoa, thân Mỹ” của ông ta đấy sao?
Xin thưa, bất chấp những tuyên bố “hùng hồn” của ngài Thủ tướng nhằm vào Trung Quốc, cũng như những lời “cảnh cáo” của báo chí Trung Quốc nhằm vào ông ta, Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một trong những người Việt Nam lập nhiều “chiến công” nhất cho Trung Nam Hải kể từ năm 1945 đến nay. Xin đơn cử:
Trước kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá XII (tháng 7.2007), ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhất quyết đề cử ông Hoàng Trung Hải vào vị trí quan trọng thứ hai trong chính phủ: Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế. Mặc dù lúc đó một số cán bộ ở Ban Tổ chức Trung ương và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã gửi Tâm Huyết Thư cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư để tố cáo lý lịch người Hán của ông Hoàng Trung Hải, nhưng vẫn không ngăn chặn được. Ngoài ra, ông Nguyễn Tấn Dũng còn tin tưởng giao phó cho ông ta vô số trọng trách quán xuyến nền kinh tế khác. Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ có một người Hán nào, đặc biệt lại che dấu lý lịch với mưu đồ đen tối, leo lên đến vị trí gần như nắm trong tay cả nền kinh tế và gây ra không biết bao nhiêu tai hoạ cho Việt Nam (nhưng đặc biệt có lợi cho Trung Quốc) suốt từ năm 2007 đến nay. Năm 2005, tức trước khi ông Nguyễn Tấn Dũng ngồi lên chiếc ghế Thủ tướng, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam mới chỉ chiếm 15,9%, với giá trị nhập siêu là 2,67 tỷ USD. Chín năm dưới quyền lãnh đạo của ông ta, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cứ tăng dần đều và đến năm 2014 thì lên tới 29,5%, với giá trị nhập siêu là 28,9 tỷ USD. Quý vị hãy hình dung thế này: cộng với giá trị nhập khẩu tiểu ngạch trá hình và hoạt động buôn lậu tràn lan từ Trung Quốc, ước chừng cứ 2 sản phẩm Việt Nam nhập khẩu từ bên ngoài thì có 1 sản phẩm “made in China”, và tỷ lệ đó vẫn đang tăng lên qua từng năm. Nếu xét thực tế phần lớn sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc là chất lượng thấp và độc hại thì đây thực sự là THẢM HOẠ đối với một nền kinh tế có độ mở nằm trong nhóm 5 nước cao nhất trên thế giới như Việt Nam.
Đồ thị: Tỷ trọng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Trung Quốc trong tổng kim ngạch XNK của Việt Nam giai đoạn 2000÷2014 – Nguồn: VOA
Trong lịch sử 4.000 năm dựng nước và giữ nước của Việt Nam, mặc dù bị Trung Quốc xâm lược và đô hộ nhiều lần, nhưng chưa bao giờ người Trung Quốc “cắm chốt” được ở bất cứ đâu trên mảnh đất phương Nam này. Song đến nay, nhờ “công lao” của cặp bài trùng Nguyễn Tấn Dũng – Hoàng Trung Hải mà Trung Quốc đã đặt chân vào và từng bước khống chế nhiều vị trí xung yếu về an ninh – quốc phòng ở Việt Nam: một loạt dự án thuê đất rừng đầu nguồn ở một số tỉnh, dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, dự án Formosa ở Vũng Áng, hai dự án du lịch của người Hoa trên đèo Hải Vân, dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận, v.v. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhà thầu Trung Quốc trúng thầu đến 90% các dự án hạ tầng trọng điểm ở Việt Nam, với vô số hệ luỵ về an ninh – quốc phòng và những thiệt hại không thể đong đếm về kinh tế (chậm tiến độ hàng năm; chất lượng thấp; phụ thuộc vào Trung Quốc về phụ tùng và linh kiện thay thế, v.v.). Với tư cách là người phụ trách Đảng uỷ Công an Trung ương kể từ năm 2006, ông Nguyễn Tấn Dũng là nhân vật đóng vai trò quyết định trong chiến dịch đàn áp ngày càng khốc liệt nhằm vào phong trào chống Trung Quốc xâm lược ở Việt Nam nhiều năm qua. Những tiếng nói phản kháng Trung Quốc mạnh mẽ nhất như TS Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cày, nhà văn/blogger Phạm Viết Đào, blogger Anh Ba Sàm, nhà văn/blogger Nguyễn Quang Lập… đều lần lượt “được” ông ta cho vào “an dưỡng” trong tù. Mới đây, nhà văn/blogger yêu nước Phạm Viết Đào đã chỉ đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người đã chỉ đạo lực an ninh dưới quyền bắt bỏ tù ông cũng như nhiều blogger khác. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chính là “tác giả” của bản Thông báo cấm biểu tình chống bành trướng Bắc Kinh do UBND Tp Hà Nội ban hành ngày 18/8/2011.
Theo nhà báo Huy Đức: “Ngày 2.8.2011, Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh khẳng định trong một buổi họp báo: ‘Hà Nội không có chủ trương trấn áp người biểu tình. Để rồi, ngày 18.11.2011, từ chỗ coi những người biểu tình chống Trung Quốc là yêu nước, Hà Nội ra thông báo vu cho người biểu tình là ‘gây rối Thủ đô’, là có ‘các thế lực chống đối trong và ngoài nước’. Dân chúng nào biết tác giả bản thông báo này là Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, phái viên của thủ tướng đặc trách an ninh, tôn giáo. Buổi tối trước khi bản thông báo được đưa xuống Hà Nội, Tướng Hưởng đã đưa đến nhà để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp đọc duyệt. Cho dù không có quan chức nào ở Hà Nội chịu ký, bản thông báo và những ‘tác phẩm báo chí’ bôi nhọ người biểu tình khác vẫn được phát trên các phương tiện truyền thông của Hà Nội. Từ đó, các vụ bắt bớ người biểu tình diễn ra khốc liệt liên tục vào các ngày chủ nhật.”
Cho đến nay, văn bản pháp lý quan trọng nhất của nhà nước Việt Nam nhằm khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa chính là Luật Biển do Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 21.6.2012. Tuy nhiên, mặc dù cố tạo ra vẻ ta đây là nhân vật chống Tàu mạnh mẽ nhất trong bộ máy, ông Nguyễn Tấn Dũng lại không hề để lại bất kỳ dấu ấn nào trong quá trình ra đời của đạo luật. Đây được cho là một chiến thắng cá nhân của ông Trương Tấn Sang, người lúc bấy giờ còn cho thấy lập trường chống Trung Quốc rõ ràng. Không những vậy, tuy đã gần 3 năm trôi qua kể từ khi đạo luật này được thông qua, chính phủ của TT Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa có bất kỳ động thái gì để triển khai thực hiện đạo luật đó, kể cả việc đơn giản nhất là ban hành nghị định hướng dẫn thực hiện. Ông Nguyễn Tấn Dũng là một “bậc thầy” của trò “nói một đàng, làm một nẻo”. Điều này thì chẳng còn mấy ai lấy làm lạ nữa. Điều lạ ở đây là dường như ông ta càng “nói một đàng, làm một nẻo” thì lại càng có nhiều người tung hê và đặt niềm tin vào ông ta. Không ít người vẫn đang mơ màng là ông ta sẽ cải cách thể chế nếu nắm quyền hành trong tay, đơn giản là vì họ đã nhiều lần nghe ông ta hô hào “cải cách thể chế”, mà lần nào nghe cũng sướng tai. Xin hỏi, nếu ông ta thực tâm muốn cải cách thể chế, tại sao ông ta lại KHÔNG HỀ thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, điều mà ông ta đã lớn tiếng hô hào ngay từ những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai và hoàn toàn nằm trong phạm vi chức trách cũng như quyền hạn của ông ta. Kinh tế quyết định chính trị. Nếu ông ta thực tâm muốn cải cách thể chế chính trị, tại sao ông ta không tiến hành cải cách thể chế kinh tế để thúc đẩy cải cách chính trị? Tổng thống Obama từng hy vọng việc ký kết TPP với Việt Nam sẽ diễn ra trong năm 2013, vậy mà 2 năm sau đấy người ta vẫn chưa xác định được thời điểm ký kết. Nguyên nhân chủ yếu cho sự chậm trễ này là vì Việt Nam chậm tái cấu trúc nền kinh tế và thái độ “quyết liệt” của ông Nguyễn Tấn Dũng trong việc đàn áp những người con ưu tú của đất nước dám cất lên tiếng nói đòi cải cách hệ thống và chống bá quyền Trung Quốc. (Dĩ nhiên, đây là điều mà Trung Quốc hết sức mong muốn.)
Bên cạnh những gì đã trình bày trên đây là thực tế (i) hàng hoá Trung Quốc ngày càng tràn ngập thị trường Việt Nam, (ii) hoạt động buôn lậu hàng hoá từ Trung Quốc về Việt Nam ngày một phổ biến, (iii) làn sóng doanh nghiệp Trung Quốc thâu tóm doanh nghiệp Việt Nam đang âm thầm diễn ra, (iv) các nhà đầu tư Trung Quốc đang ráo riết săn lùng bất động sản Việt Nam, và (v) người lao động Trung Quốc nhan nhản trên khắp lãnh thổ Việt Nam – tất cả đều diễn ra dưới quyền cai quản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thử hỏi, kể từ năm 1945 đến nay, liệu còn người Việt Nam nào lập được nhiều “thành tích” cho Trung Quốc hơn ông Dũng?
Những phát biểu hùng hồn của ông Dũng nhằm vào Trung Quốc và những lời “cảnh cáo” mà Hoàn Cầu Thời Báo nhằm vào ông Dũng chẳng qua chỉ là trò loè bịp dư luận do Trung Nam Hải giật dây, hòng tạo điều kiện cho con bài đắc dụng nhất của họ “ghi điểm” trong mắt công chúng Việt Nam hầu tiến tới thâu tóm ngôi vị tối cao tại kỳ Đại hội Đảng sắp đến. Mặc dù đứng ở vị trí thứ ba hệ thống “ngôi thứ” của bộ máy, nhưng ông Tấn Dũng vẫn được đánh giá là nhân vật quyền lực nhất Việt Nam nhiều năm qua. Mặc dù đứng ở vị trí thứ ba hệ thống “ngôi thứ” của bộ máy, nhưng ông Tấn Dũng vẫn được đánh giá là nhân vật quyền lực nhất Việt Nam nhiều năm qua.
Ông Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định trước Quốc hội hôm 19.11.2014 rằng quan điểm của ông ta trong quan hệ với Trung Quốc là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.
Vậy ông ta sẽ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” với Trung Quốc như thế nào một khi trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Việt Nam?
Xin thưa, quá trình “Hán hoá” Việt Nam sẽ còn diễn ra nhanh hơn so với thời kỳ ông ta làm Thủ tướng, bởi lúc này chẳng còn thế lực nào ở Việt Nam đủ sức thách thức quyền lực của ông ta cả.
Hãy nhìn lại 9 năm dưới “triều đại” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xem Việt Nam đã bị “Hán hoá” đến thế nào để hình dung ra bộ mặt Việt Nam 10 năm tới dưới “triều đại” của Tổng Bí thư/Tổng thống Nguyễn Tấn Dũng. Dĩ nhiên, nếu trở thành Tổng Bí thư khoá tới, ông ta sẽ tiến hành cải cách thể chế “theo cách của 3X” vào cuối nhiệm kỳ để dọn đường cho mình trở thành “Putin của Việt Nam”.
Tác giả bài viết này là người vẫn đang theo đuổi vụ tố cáo đối với PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và (nguyên) TBT Nông Đức Mạnh kể từ năm 2008 đến nay, nhưng không hề được giải quyết đúng pháp luật, trong bối cảnh ngay cả ĐBQH Dương Trung Quốc, người tiếp nhận đơn thư của chúng tôi, cũng đã bị PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải khống chế và thao túng, mặc dù vụ việc đã được truyền thông quốc tế nhiều lần đưa tin.
Trong câu chuyện tố cáo, tác giả đã nêu rõ ông Hoàng Trung Hải (và sau lưng ông ta là Trung Nam Hải) đã gài bẫy và khống chế được ông Nguyễn Tấn Dũng. Vì thế, ông ta đã nhất quyết đặt ông Hoàng Trung Hải vào vị trí PTT phụ trách kinh tế, và ra sức bảo vệ nhân vật đầy tai tiếng và mờ ám này. Bản thân vợ tác giả, cô Lê Thị Phương Anh, nhân chứng sống của vụ án và từng là một mắt xích quan trọng trong đường dây ma tuý của PTT Hoàng Trung Hải, lại đang bị Công an Đồng Nai bắt giam và truy tố trái phép từ ngày 15.5.2014.
Bộ Ngoại giao Mỹ từng nêu vụ Lê Anh Hùng, người tố cáo cặp bài trùng Hoàng Trung Hải – Nguyễn Tấn Dũng, bị cưỡng chế vào trại tâm thần từ ngày 24.1 ÷ 5.2.2013 như một vụ vi phạm nhân quyền tiêu biểu của nhà cầm quyền Việt Nam trong năm 2013.
Dưới áp lực của dư luận, ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn điềm nhiên tuyên bố dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”. Với dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine trên đèo Hải Vân thì mặc dù Bộ Quốc phòng đã chính thức có văn bản kiến nghị dừng dự án từ ngày 28.11.2014 song đến nay ông ta vẫn chưa hề hé răng lấy nửa lời, dù trước đấy ông ta đã hứa “sẽ xem xét lại”. Nếu đối thủ của ông ta không “xì” tin cho báo chí lên tiếng thì sẽ chẳng bao giờ có chuyện ông ta “xem xét lại” ở đây cả.
Tương tự, nếu đối thủ của ông ta không “xì” ra cho báo chí biết chuyện Cty Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đòi thành lập đặc khu kinh tế trực thuộc Văn phòng Chính phủ thì nay Formosa Hà Tĩnh đã trở thành một “tiểu quốc” của Đại Hán trực thuộc PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải rồi (dù trên thực tế nó đã trở thành đặc khu Trung Quốc từ lâu).
Đặc biệt, nếu truyền thông quốc tế không kịp thời loan tin thì âm mưu lập căn cứ tại Cửa Việt của Trung Quốc cũng đã trở thành hiện thực.
Lê Anh Hùng Lê Anh Hùng là một blogger tự do trẻ trong nước tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
|
|
|
Post by PQT on Aug 4, 2015 11:12:33 GMT -6
Đệ Nhất Cộng Hòa có “kỳ thị Phật giáo” không? Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh (Người đánh máy: Hàn Giang Trần Lệ Tuyền) Giáo lý nhà Phật rao giảng thập nhị nhân duyên, để đi đến kết luận triệt để là bài trừ sắc tướng. Đạo Phật cũng như Đạo Thiên Chúa cao khiết mênh mông, bao trùm toàn thể nhân loại, là gia sản chung của toàn thể loài người, không thể đóng khuôn đạo giáo trong một văn bản của một quốc gia. Các nhà lãnh đạo của đạo Phật đã mắc vào vòng sắc tướng và họ đã chịu hậu quả như thế này: Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa ngày 30.4.1975, chúng tuyên bố hủy bỏ tất cả luật lệ của Việt Nam Cộng Hòa. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập do sắc lệnh 158/SL/CP, ngày 14.5.1964. Sắc lệnh ấy, cũng cũng chịu chung số phận với mọi văn bản lập pháp, lập quy của Việt Nam Cộng Hòa. Kỳ thị Phật giáo trong chính sách và xã hội: Trước kia, Phật giáo Thống nhất đã đòi: Một trong năm nguyện vọng của Phật giáo đồ” là yêu cầu chế độ Ngô Đình Diệm để cho tăng ni được tự do truyền đạo và hành đạo. Có lẽ trong trí các vị này nghĩ rằng Phật giáo bị kỳ thị nên tăng ni không được tự do hành đạo và tự do truyền đạo. Nhưng họ lại không đưa ra được bằng chứng nào cụ thể chứng minh chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra những khó khăn hoặc ngăn cản việc truyền đạo hay hành đạo. Ngược lại người ta có rất nhiều bằng chứng, chứng minh đạo Phật đã phục hưng rất mạnh trong chín năm cầm quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước nhất, là số chùa được xây cất. Trong cuốn “Our Vietnam Nightmare” bà Maguerite Higgins cho biết: “1275 ngôi chùa được xây cất, 1295 ngôi chùa được trùng tu dưới trào Ngô Đình Diệm”. Theo cụ Đoàn Thêm và cụ Mai Thọ Truyền thì trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, Nam Việt Nam chỉ có 2206 ngôi chùa, đến năm 1963 số chùa tăng lên thành 4766 ngôi. Nhiều ngôi chùa được quốc gia trợ cấp tiền bạc để xây cất. Về các sở văn hóa, trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, đạo Phật chưa mở trường học. Dưới chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề ra đời. Đỗ Mậu cho biết năm 1970 Phật giáo có 160 trường trung tiểu học trong cả nước. Đa số trường này được xây cất trước ngày 1.11.1963. Đọc những thành quả trên, liệu người ta có dám kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm và chế độ của ông đã “kỳ thị Phật giáo” không ? Xét chung trên bình diện chính sách quốc gia cũng như thành quả của đạo Phật trong chín năm cầm quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm, người ta không tìm ra được bằng cớ nào chứng tỏ Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính quyền của ông kỳ thị đạo Phật, kỳ thị giáo hội Phật giáo, kỳ thị tín đồ đạo Phật. Khi tôi đưa ra một vài vấn đề để viết bảng so sánh dưới đây, tôi không đề cao Công giáo hay miệt thị Phật giáo. Tạm thời tôi chỉ nói về: Yếu tính đạo giáo - Đạo Phật không hẳn là một tôn giáo, vì tôn giáo phải có Thần Linh. Đức Phật không phải là Thần Linh. Ngài chỉ là bậc Đại giác, bậc Chánh Đẳng Chánh giác, nói theo chữ Phạn là A-niệu-da-la Tam-niệu Tam bồ đề (Amuttara Samyak Samboddhi). Các đệ tử theo ngài đều là tỳ kheo như nhau, không đẳng cấp. Đã không không hẳn là tôn giáo, thì cũng không hẳn phải có giáo hội mà chỉ có những tu hội quy tụ những người đồng một chí hướng trong một tu viện hay một ngôi chùa. - Đạo Công giáo rõ ràng là một Tôn giáo vì có Thần Linh Tối Cao là Thiên Chúa và có hàng giáo phẩm thống thuộc từ cao xuống thấp tỏa rộng sinh hoạt trong cộng đồng tín đồ. Chúa Jêsu đã thiết lập giáo hội, đặt ông Phê-rô làm đầu chăn “các chiên mẹ và chiên con”. Chúa như cây nho, tín đồ là cành nho. Thánh Phao-lô gọi giáo hội là là “thân thể mầu nhiệm” của Chúa. Giáo hội trở thành keo sơn liên kết người sống và kẻ chết: Giáo hội đang chiến đấu là giáo hội hữu hình, gồm toàn dân Thiên Chúa ở trần gian, giáo hội khải hoàn là toàn thể dân Chúa trên Thiên đàng, giáo hội đau khổ là toàn thể dân Chúa đang chịu thanh luyện sau khi chết, để nhập vào giáo hội khải hoàn. - Hệ quả: Chữ Giáo Hội trong đạo Phật là mượn của Đạo Thiên Chúa: Là Ecclesia, Église, Church, theo Thánh Kinh (Mat.16,19), nhưng chỉ mượn được “sắc tướng” thôi, chứ bản chất thì không thể mượn được. Vì thế, tín đồ Công giáo đoàn kết keo sơn thành một cộng đồng rõ nét, và tuân lệnh chủ chiên của mình là hàng giáo phẩm trong vấn đề đức tin. Đời sống giáo hội thông hiệp với tín đồ bằng lời Chúa do giáo sĩ giảng dạy và nuôi dưỡng tinh thần tín đồ bằng các phép Bí tích. Bí tích Thánh thể trung tâm của đời sống Công giáo. Điều này, đạo Phật không thể có được, vì trong đạo Phật ai tu nấy chứng. Trong Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng ai cũng phải tự mình mà đạt tới. Chính đức Phật đã dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” và “Chúng sanh hãy tự đốt đuốc tìm đường mà đi”. Tuy gọi là “quy y Tam Bảo”, nhưng tín đồ đạo Phật hoàn toàn tự do, không lệ thuộc vào ai. Đã không lệ thuộc ai, thì sự giao tế trong một cộng đồng chỉ còn là giao tế xã hội hàng ngang. Kết quả sự tôn kính dành cho kẻ truyền pháp (tương đương với giáo sĩ truyền giáo) giảm. Những cái giảm kia xẩy ra ngay trong cộng đồng đạo Phật tỏa rộng ra toàn xã hội, đưa đến Ngộ Nhận là “kỳ thị Phật giáo”. - Về những người làm việc tôn giáo - Đạo Phật: Các tu sĩ đồng hạng đều là tỳ kheo, tức là những người sống theo lối tu hành của Đức Phật. Muốn làm tỳ kheo chỉ cần tâm nguyện xuất gia là đủ. Xuất gia rồi, thì giữ giới luật là thành tỳ kheo. Không bắt buộc trình độ văn hóa hoặc là phải tu học bao lâu. Không có các trường chuyên nghiệp bắt buộc đào tạo tỳ kheo theo một học trình mở rộng cả đạo lẫn đời. Thường thì các vị sư cụ (đại lão Hòa thượng, Thượng tọa) thu nhận một số đệ tử rồi tự các ngài huấn luyện lấy, xong cho thụ giới thành tỳ kheo. Bởi đó, trình độ văn hóa tổng quát của các vị tỳ kheo thường yếu kém, nhiều vị ngay sự hiểu biết về Phật pháp cũng rất lờ mờ, pha trộn tín ngưỡng dân gian, ngoại đạo. Ấy là chưa nói tới một số kẻ lợi dụng nguyên chỉ là thầy cúng của “đạo” dân gian, bỗng chốc mặc áo tỳ kheo nhập hàng tu sĩ của đạo Phật. - Đạo Công giáo: Người giáo sĩ Thiên Chúa dù là giáo sĩ dòng hay giáo sĩ triều (thuộc mỗi địa phận) được đào tạo trong các trường chuyên nghiệp, theo học một học trình Quốc Tế là bảy năm, sau khi tốt nghiệp bậc trung học hay “phổ thông”. Ở Đại Chủng Viện, họ được học đủ các môn học về đạo và đời, học về phương pháp truyền giáo, và học cả về các tôc giáo khác… Đại Chúng Viện trang bị cho họ đủ khả năng trở thành những “cán bộ” tôn giáo xuất sắc. Nhiều người trong số họ uyên bác và nói chung đều có học thức. - Hệ quả: Xã hội Việt Nam trọng kẻ sĩ, những kẻ có học thức thường được kính trọng. Các nhà sư nhiều người xuất thân từ thầy cúng, hoặc là đệ tử của các sư cụ khả năng yếu kém, thì sẽ không đủ uy tín lãnh đạo và không tạo được sự kính trọng của người khác. Điều này, đem so sánh với giáo sĩ Công giáo sẽ tạo ra sự ngộ nhận là “kỳ thị Phật giáo”. Trước năm 1955, đạo Phật ở Việt Nam chỉ là những “tập đoàn” rời rạc, quy tụ chung quanh một ngôi chùa hay một tu viện, lấy việc tu niệm làm chính. Các “giáo hội” Tăng già, Thiền tịnh đạo tràng, Tăng sĩ Theravada, Tăng già nguyên thủy… giữ nguyên bản sắc của mình giống như dòng tu riêng biệt, không lệ thuộc một “giáo hội” trung tâm như Công giáo. Các vị tỳ kheo tu hành thuần túy không màng tới chuyện đời, không lưu tâm tới vật chất. Những dòng tu hoằng dương đạo pháp, không lệ thuộc một giáo quyền nào cả. Ở thôn quê có các ngôi chùa làng. Chùa làng là công sức và của cải của dân làng chung lưng mà dựng nên, không thuộc tập đoàn Phật giáo nào. Khi đã có chùa rồi, thì hội đồng kỳ mục tự tìm kiếm lấy sư để mời về trụ trì, và dân làng cũng có quyền trục xuất vị sư ra khỏi chùa, nếu ông ta phạm giới. Từ năm 1955, do cố gắng vượt bực về tài chánh, do chính quyền giúp đỡ, Tổng giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có các hoạt động xã hội và từ thiện: hệ thống trung tiểu học Bồ Đề ra đời, mà trước đó không có. Đồng hóa đạo Phật với dân tộc: Chắc chắn dân tộc Việt Nam đã có một đạo giáo khác hẳn với đạo Phật. Đạo ấy, là việc thờ cúng tổ tiên và trọng thánh thần. Việc thờ cúng tổ tiên minh thị chấp nhận như chân lý của dân tộc là linh hồn bất diệt. Vì linh hồn bất diệt cho nên mới có việc thờ cúng người chết, xem người chết như còn hiện diện và vẫn tác động vào các sinh hoạt của người sống. Trong khi đó, thì giáo lý căn bản làm nên Phật pháp của đạo Phật là thuyết luân hồi, phủ nhận linh hồn hằng sống. Đức Phật không dạy rõ, nếu linh hồn không bất diệt thì cái gì sẽ làm cho các pháp (con người cũng là một pháp) được tái sinh vào các cảnh giới trước khi chấm dứt sinh tử thoát khỏi luân hồi mà vào Niết Bàn Các nhà Phật học đã sáng chế ra duy thức học. Cái thức cuối cùng là A-lại-da thức, tiếng Việt dịch là Tâm thức, tức là cái thức “máy móc” tạo thành cái nghiệp theo luân hồi. Dù sao thì thuyết luân hồi cũng trái hẳn với tín ngưỡng của dân tộc là lòng tin vào linh hồn bất diệt qua việc thờ cúng người chết. Chính vì thế, nên cho dù đạo Phật đã vào nước Việt sớm hơn đạo Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày càng xa rời với niềm tin của Đạo Việt tin vào linh hồn hằng sống; đến khi thấy con số tín hữu Công giáo tăng lên vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thì các tăng lữ đạo Phật vì không biết làm gì hơn, nên đã lên án chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm là “kỳ thị Phật giáo”, là bất công và gian trá. Nhưng đánh thẳng vào Công giáo không được, vì phạm tới tín ngưỡng của người khác, được xem là tội mọi rợ, bị cả thế giới lên án, vì đó là nhân quyền căn bản và thiêng liêng nhất của con người. Ngay cả cộng sản bài trừ tôn giáo triệt để, nhưng cũng không dám công khai xúc phạm thẳng tới tôn giáo, họ phải nhờ cái cầu “giai cấp”. Ở Việt Nam những người thù nghịch Thiên Chúa Giáo đánh Công giáo bằng cách chụp cho Công giáo một cái mặt nạ, một cái mũ. Mặt nạ ấy, là Cần Lao, nhà Ngô và chủ nghĩa Thực dân pháp. Đọc những lời lên án Công giáo đầy rẫy ta thấy rõ “Thực dân, Cần Lao, nhà Ngô chỉ là cái diện để những người thù nghịch đánh vào Công giáo, không những Công giáo Việt Nam mà cả Công giáo hoàn cầu, là Tòa Thánh La Mã. Nghiên cứu về mưu kế, sách lược này được sách “Tam thập lục kế” gọi là “Thanh Đông kích Tây hay dương Đông kích Tây”. Ở đây không phải là nhà Ngô hay thực dân, mà chính là Đạo Thiên Chúa vậy. Trở lại cuộc đấu tranh của đạo Phật vào năm 1963. Đa số các tông phái của đạo Phật chỉ lo tu thân, học Phật, nhiều tông phái không muốn lao thân vào cuộc đấu tranh lật đổ “nhà Ngô”. Nhiều vị tỳ kheo đức độ nhìn nhận Tổng thống Ngô Đình Diệm là người có công giúp cho các đạo giáo phục hưng và phát triển ở miền Nam, trong đó có đạo Phật. Nếu cứ để tình trạng ấy thì các nhà sư chính khách không thể thực hiện được mưu đồ của mình, mà việc trước mắt là đoàn kết các tông phái rời rạc trong cùng một đạo thu về một mối. Họ đã phát động cuộc đấu tranh: Tổng thống Ngô Đình Diệm trở thành thứ “oan dương” cho họ đổ lên đầu những tội lỗi tưởng tượng. Kẻ làm chính trị được phép sử dụng những thủ đoạn, được quyền dùng những giả diện để chiếm mục tiêu, nhưng phải thành thật với chính mình, nếu không thì chết. Hứa Du hỏi Tào Tháo về quân lương. Tào Tháo làm mặt bảnh nói quanh, nhưng trong bụng thì lo lắm vì quân hết lương rồi. Sau phải thưa thiệt để Hứa Du hiến kế. Những kẻ nhận phần trăm dân số đạo Phật ở Việt Nam đã vẽ ra một tương lai tươi sáng cho “đạo pháp và dân tộc” bằng không tưởng, rồi quyết tâm hạ bệ “nhà Ngô”. Đến khi “nhà Ngô” đổ rồi, thì đạo pháp trở thành mạt pháp, còn dân tộc thì điêu linh khốn cùng tới tận đất đen. Các tay chính khách đạo Phật từng ngụy trang thành tăng sĩ chính khách, đã đồng hóa đạo Phật với dân tộc, để nhận cái số đông quần chúng làm quần chúng của mình theo cái cách thức của những kẻ làm chính trị. Công thức “đạo pháp và dân tộc” không những trái với lịch sử mà còn tỏ ra là gian dối. Nay họ vẫn chưa từ bỏ tham vọng, dù thực chất của họ chẳng có gì. Những ai có lòng với đất nước Việt Nam không nên ngại ngùng gì mà phải đưa vấn đề ra trước ánh sáng, để quốc dân biết mà tránh sau này. Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh
|
|
|
Post by CNP on Aug 19, 2015 14:05:05 GMT -6
DANH SÁCH CON ÔNG CHÁU CHA "KHỦNG" Ở VIỆT NAM .
CON CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG
Chúng tôi bắt đầu với người có nhiều quyền lực, gian xảo và tham nhũng nhất nước hiện nay là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. v
Lý lịch của Nguyễn Tấn Dũng thật mù mờ. Trên trang mạng của Nguyễn Tấn Dũng ghi là sinh năm 1949 tại Cà Mau, nhưng ngôi nhà tự nguy nga của Dũng thì ở Rạch Giá. Ông Hoàng Dũng, một cán bộ Văn phòng Trung ương đảng đã làm việc với nhiều ủy viên cao cấp trong đảng, đã tiết lộ nhiều bí mật về đời tư của nhiều người lãnh đạo.
Về Nguyễn Tấn Dũng, ông viết : «Theo cụ Nguyễn văn Linh, Tổng Bí Thư, thì trong thời gian Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Liên khu ủy Khu IV từ năm 1948 đến 1950 đã có quan hệ với một cán bộ phong trào ở đây và sinh ra Nguyễn Tấn Dũng và cụ còn cho biết là Nguyễn Tấn Dũng còn có một người em trai nữa cũng là con của tướng Thanh.
Cũng trong tài liệu nầy, ông Hoàng Dũng tiết lộ là có gặp nhiều lần Nguyễn Tiến Thắng (Tư Thắng) là em của Nguyễn Tấn Dũng (Ba Dũng). Ông viết về Tư Thắng như sau : Điều tôi quan tâm nhất là anh ta có quan hệ với nhiều người Đài Loan, đặc biệt trong mạng lưới các chân rết của Tư Thắng có một ngân hàng Đài Loan hoạt động chui tại VN là First China Bank. Như vậy, có thể hiểu được đây chính là «sân sau» của Ba Dũng và để tránh đụng chạm với các thế lực khác cạnh tranh, anh em ông Ba Dũng đã nhắm vào địa bàn hoạt động chủ yếu ở miền Trung và Nam Bộ, sau đó việc rửa tiền và chuyển ngân lậu được thực hiện qua ngã Đài Loan… Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy (Paris), căn cứ vào sự nâng đỡ tận tình của tướng Lê Đức Anh (chủ tịch nước 1992-1997, nay đã hơn 90 tuổi nhưng vẫn còn uy thế trong Trung ương đảng) lại đưa giả thuyết không những Nguyễn Tấn Dũng mà cả Nguyễn Minh Triết đều là con rơi của Lê Đức Anh (cần phân biệt với tướng Lê Hồng Anh, là đàn em được Dũng cất nhắc cho làm Bí Thư Tỉnh Rạch Giá, rồi phong quân hàm đại tướng, Bộ trưởng bộ Công An cho đến tháng 8/2011)
Dù là con của ai, căn cứ vào lý lịch và đường hoạn lộ thênh thang của Dũng, chắc chẳn Dũng là con rơi của một cán bộ cao cấp cộng sản. Lúc 12 tuổi, Dũng đã bỏ học (vừa học xong bậc tiểu học) đi làm du kích, y tá cứu thương ở vùng Cà Mau rồi chính ủy tiểu đoàn, trung đoàn ở vùng Cà Mau, tiến lên đến Tỉnh ủy Kiên Giang. Trong thời gian nầy (1980-1985), Dũng đã có công bắt nhóm Trần Văn Bá (bị xử tử), Mai Văn Hạnh được tha trở về Pháp vì là bạn học cũ của thủ tướng Pháp thời đó. Ngoài ra, Dũng còn tổ chức những cuộc vượt biên bán chính thức ở Rạch Giá và Hà Tiên để làm giàu cho đảng và cho cá nhân. Nhờ Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh cất nhắc, Dũng được đưa về trung ương làm Thứ trưởng Công An (1995-1996), Thống đốc Ngân hàng, Phó Thủ Tướng rồi Thủ Tướng (thay thế Phan Văn Khải) từ tháng 11-2006 và được tái cử trong kỳ đại hội đảng lần thứ XI (2010). Thử tưởng tượng một người vừa học hết tiểu học (sau nầy có học trường đảng cho có lệ, nhưng trong lý lịch ghi là Cử Nhân Luật), mà được đưa lên làm thống đốc ngân hàng trong thời kỳ kinh tế Á châu bị khủng hoảng, và thủ tướng của một quốc gia có nhiều liên hệ với các cường quốc, thì phải hiểu là việc lãnh đạo quốc gia đối với cộng sản là việc riêng của đảng. Ngoài ra, Nguyễn Tấn Dũng lại là người có nhiều mưu trí và thế lực trong Trung ương đảng, là đảng viên cao cấp duy nhất sớm gởi con du học ở Mỹ và làm sui gia với Việt kiều, điều cấm kỵ tối hậu của đảng. Báo chí thuật lại trong lần họp hội nghị APEC năm 2006, Tổng Thống George Bush chúc mừng xỏ xiên Dũng có con du học ở Mỹ và lấy Việt kiều, Dũng bối rối phải chống chế là con trai đi học bằng học bổng (có lẽ để biện hộ với lương của thủ tướng độ 1000 mỹ kim thì làm sao có thể cho con du học) và lờ đi chuyện con gái lấy Việt Kiều.
Đứa con mà Bush nhắc đến là Nguyễn Thanh Nghị, tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ sư công chánh (Structural Engineering) ở đại học George Washington University, và khi về VN giảng dạy tại đại học Kiến Trúc thành phố HCM, rồi Phó Hiệu Trưởng (Phó Khoa Trưởng) trường nầy. Trong đại hội đảng lần thứ XI, Dũng đã dọn đường lãnh đạo cho con bằng cách đưa Nguyễn Thanh Nghị vào làm ủy viên dự khuyết trong Trung ương đảng và ngày 11-11-2011, Dũng đã bổ nhiệm con trai mình làm Thứ Trưởng Bộ Xây Dựng mặc dù bộ nầy đã có 5 thứ trưởng (Dũng đã hèn nhát không ký tên trên nghị định bổ nhiệm mà sai phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký thay). Tại VN hiện nay, hai mỏ vàng để hốt bạc và tham nhũng là ngành xây dựng (đất đai và địa ốc) và hải quan. Về mặt kinh tế, từ nhiều năm nay, Nghị có liên hệ mật thiết với Công ty Betexco là đại công ty xây cất các tòa nhà chọc trời ở Saigon và HàNội. Tầm hoạt động của Betexco còn bao trùm cả kỹ nghệ may dệt, vô chai và thủy điện. Như vậy, Nguyễn Thanh Nghị là cột trụ chính trị và kinh tế cho gia đình Dũng và cho đảng Cộng Sản.
Đứa con lấy Việt kiều tên là Nguyễn Thanh Phượng, du học ở Thụy Sĩ, đậu MBA ở International University in Geneva là đại học có liên kết với Michigan State University (cô chỉ đến Mỹ năm 2004 trong 2 tuần để nhận bằng từ đại học nầy chớ không có du học tại Mỹ). Tháng 1 năm 2006, lúc mới 26 tuổi, Phượng đã làm Giám đốc đầu tư của công ty Vietnam Holding Asset Management, quản trị trên 100 triệu MK của các nhà đầu tư Thụy Sĩ tại VN. Đến tháng 11 cùng năm, Phượng làm Chủ tịch Quỹ đầu tư chứng khoán Việt (Viet Capital Fund Management Joint Stock Company, viết tắt là VCFM) gồm hàng ngàn tỷ bạc (VN) của các nhà đầu tư và công ty người Việt. Công điện Wikileaks tiết lộ là trong báo cáo của Tổng Lãnh sự Hoa kỳ tại Saigon là Seth Winneck gởi về Bộ Ngoại giao ngày 26/12/2006 đã viết : « Tại sao người ta có thể tin tưởng để giao một số vốn khổng lồ như thế cho một người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm như Phượng. Và câu trả lời hiển nhiên là về mặt chính trị, giao quỹ đầu tư cho cô con gái cưng của thủ tướng quản trị là một điều khôn ngoan bởi lẽ quỹ nầy tập trung những ngành mà chánh phủ kiểm soát như dầu khí, ngân hàng và truyền thông »
Năm 2011, Phượng 31 tuổi là một tỷ phủ, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Công ty Chứng khoán Bản Việt sở hữu 6,5 triệu cổ phần chiếm 43,2% vốn của công ty, Chủ tịch HĐQT Công ty bất động sản Bản Việt và vài ngày trước khi người anh được cử là thứ trưởng, Phượng được đề cử vào HĐQT Ngân hàng Bản Việt ( trước có tên là Gia Dinh Bank) với số vốn là 3000 tỷ VN. Với các thành tích trẽn, Phượng là nhà doanh thương trẻ tuổi kỳ tài nhất của thế giới !
Người chồng của cô Phượng là Nguyễn Bảo Hoàng (Henry Nguyen) con của Việt kiều «tội đồ» Nguyễn Bang (Nguyễn Tấn Dũng đã gọi Việt Kiều Nguyễn Cao Kỳ là tên tội đồ). Henry Nguyễn là Tổng Giám Đốc Điều Hành công ty IDG Ventures với số vốn là 100 triệu MK (sau tăng lên 200 triệu) phần lớn do người anh rể là Thomas Connor, một tài phiệt Mỹ đã làm ăn với Bộ Viễn Thông Bưu Chính Việt Nam, kiểm soát hầu hết hệ thống thuê bán Internet và truyền thông tại VN. Thomas Connor đã một lần khai phá sản, nhưng số đầu tư vẫn gia tăng, do đó câu hỏi đặt ra phải chăng các công ty do vợ chồng Phượng-Hoàng quản trị là cửa ngõ hợp pháp cho cha vợ và đồng bọn rửa tiền, tẩu tán tài sản tham nhũng ra ngoại quốc.
Đứa con thứ ba của Dũng là Nguyễn Minh Triết, học kỹ sư hàng không ở đại học Queen Mary tại Anh Quốc, và đã có giữ chỗ ở Bộ Quốc Phòng khi về nước. Gia đình Nguyễn Tấn Dũng là điển hình của chế độ con vua thì lại làm vua tại VN hôm nay.
CON CỦA NGUYÊN TỔNG BÍ THƯ NÔNG ĐỨC MẠNH
Trong kỳ hợp đảng lần thứ XI còn có một 4C thứ hai cũng được bầu là Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng, tạo nên nhiều tai tiếng là Nông Đức Tuấn, con trai của Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh (2001-2010). Cá nhân Nông Đức Mạnh cũng đã là một 4C, con rơi của Hồ Chí Minh với Nông thị Ngát, bí danh là Nông Thị Trưng. Được báo chí hỏi có phải Mạnh là con tư sinh của Hồ Chí Minh hay không, Mạnh đã trả lời lửng lơ «Ở đất nước nầy ai chẳng là con cháu của Bác».
Nông Đức Tuấn sinh năm 1963, người dân tộc Tày, đã đi lao động xuất khẩu tại Đông Đức từ lúc 18 tuổi, lúc ấy Nông Đức Mạnh đã làm Tỉnh ủy tỉnh Bắc Thái. Sở dĩ cha làm quan mà đưa con đi lao động xuất khẩu vì cha muốn đưa con ra ngoài nước để cai nghiện khỏi xấu hổ. Từ khi trở về nước cuối năm 1988 cho đến năm 2008, Tuấn lêu bêu với mấy chức vụ trong Đoàn Thanh niên và Ủy Ban Sắc tộc. Để dọn đường cho con trai làm lãnh tụ, Nông Đức Mạnh «dàn xếp » với Thủ Tướng Dũng cử Nông Đức Tuấn làm Phó tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang vào tháng 4 năm 2009. Vận may đến với Tuấn là khi người thanh niên tên Nguyễn Văn Khương bị công an tỉnh Bắc Giang đánh chết và dân chúng xuống đường đòi nợ máu với chánh quyền, Tỉnh ủy Bắc Giang tên Đào Xuân Cẩn bị ép buộc từ chức để nhường ghế Tỉnh ủy cho Tuấn. Khi Đại hội Đảng họp lần thứ XI, tuy Mạnh bị mất chức Tổng Bí Thư nhưng lại gài được cho con vào ghế Ủy viên Trung ương, mở đường cho chế độ cha truyền con nối dòng họ Nông.
CON CỦA CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN
Lê Duẩn là người Tổng bí thư cầm quyền lâu nhứt của chế độ Cộng Sản VN. Từ 1960 đến 1976, Lê Duẩn là Bí Thư thứ nhứt của đảng và từ sau 1976, chức vụ được đổi là Tổng bí thư, chức vụ mà Duẩn nắm giữ cho đến khi Duẩn mất năm 1986. Trong lý lịch các nhân vật cao cấp cộng sản, Duẩn cũng như Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí được xếp vào hạng vừa dốt, vừa độc tài và đa thê. Vì nhiểu vợ, Duẩn có nhiều con, trong số có nhiều người giữ các chức vụ quan trọng trong chánh phủ và cơ sở kinh tế đầu não.
Theo Hứa Hoành, thuở sinh thời, Lê Duẩn có ba vợ, bà vợ chính tên Cao thị Khê ở Quảng Trị cưới khi Duẩn 20 tuổi, có em là Cao Xuân Diệm, sau nầy trở nên Trung tướng công an bí danh Dương Thông phụ trách đàn áp văn nghệ sĩ. Bà thứ hai là Đỗ Thị Sảnh. Năm 1942, khi hoạt động trong Nam, Lê Duẩn dùng thủ đoạn cưới thêm bà Thụy Nga, cháu gọi ông Đỗ Hữu Vị (đại úy phi công VN đầu tiên trong quân đội Pháp). Ngoài ba bà vợ, Lê Duẩn còn lăng nhăng với nhiều người khác, trong đó có bác sĩ Hồ Thị Nghĩa, con của Hồ Viết Thắng, Phó chủ tịch Ủy ban kế hoạch nhà nước trong thập niên 80. Theo nhà văn Xuân Vũ, bà Thụy Nga đã có người yêu nhưng bị Lê Đức Thọ dàn xếp lừa bà vào một căn lều vắng để Lê Duẩn đến cưỡng hiếp khiến bà phải chịu làm vợ ba. (Hoàng Dung, tr.83, 84)
Trừ Lê Hãn, Giám Đốc Tiếp Liệu cho các trường quân sự nay đã về hưu, các người con khác của Lê Duẩn đảm nhiệm các chức vụ béo bở như sau :
– Lê Kiến Trung : Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Hải quan Thành phố HCM, hiện nay là Phó Tổng Cục An Ninh, Bộ Công An.
– Lê Kiến Thành : là tỷ phú, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Techcombank (1994-2004), chủ tịch Công ty xây dựng và phát triển đô thị và hiện nay là Tổng Giám Đốc Công ty chế biến thực phẩm Thái Minh. Ngoài ra, Thành còn là Phó Chủ Tich thường trực Hội Golf Việt Nam, một loại kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận do các 4C độc quyền nắm giữ.
Báo chí trong nước hồi tháng 10/2011 xôn xao vì Lê Kiến Trung đã công kích và nói xách mé Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải là Đinh La Thông khi ông nầy cấm nhân viên của Bộ Giao Thông chơi golf. Bức thư của Lê Kiến Thành có đoạn như sau :«Vấn đề giao thông thấp kém lạc hậu, đầu tư vào giao thông như muối bỏ bể, một con đường quy hoạch cho 30000 dân, giờ phải tải cả triệu người, điều nầy đã tồn tại ngót 30 năm nay. Hẳn ông Bộ Trưởng cũng biết golf mới du nhập vào VN chừng 10-15 năm nay, vậy trước khi có golf điều gì đã ảnh hưởng tới chất lượng lãnh đạo của cán bộ giao thông vận tải. Chơi golf không có tội, lãnh đạo trước hết phải thượng tôn pháp luật»
Việc tranh chấp giữa ông con của cựu bí thư bố già và ông bộ trưởng khoác lác là điễn hình của chế độ luật rừng và thế lực của 4C tại VN hôm nay.
– Lê Thị Muội : Hoàng hữu Quýnh trong tác phẩm «Tôi bỏ đảng» đã viết về cô gái nầy như sau : Trong số du học sinh VN tại Liên Sô có 3 đứa con của Lê Duẩn, học dốt nhưng lại đài các nhất. Đó là Lê Hản học tại đại học quân sự không quân, Lê thị Hồng và Lê Thị Nga.
Lê thị Hồng có tên thật là Lê Thị Muội. Là con đẻ của anh Ba, nhưng Lê thị Hồng không đồng quan điểm với ba mình. Triết lý sống của Lê thị Hồng là sống phải cho ra sống. Phải được thoải mái về mặt tinh thần. Về vật chất phải có miếng ăn ngon, phải mặc đẹp và phải biết tận hưởng mọi hạnh phúc khi tình yêu đến. Hồng đi nghỉ hè và «hành nghề» tại hải cảng Sochi trên bờ biển Hắc Hải. Không chỉ Hồng làm cái «nghề đó», các nữ sinh Liên Sô cũng vậy (Tôi bỏ đảng, tr.105). Khi về nước, Lê Thị Muội được cử làm Phó Bộ Trưởng bộ Nội Thương.
– Lê Vũ Anh tên thật là Lê Thị Nga: du học ở Nga, cãi lời cha ở lại lấy ông thầy người Nga tên Marlov, sau đó chết vì tai nạn xe cộ. Người ta đồn cái chết nầy do Lê Duẩn ra lịnh giết để giữ uy tín cho ông, (Hoàng Dung, tr. 131) không muốn cho con kết hôn với người ngoại quốc, điều cấm kỵ của đảng, ngay cho người ngoại quốc đó là người Nga. Điều nầy cho thấy việc Nguyễn Tấn Dũng làm sui gia với Việt kiều là một dấu hỏi lớn, phải chăng đảng đã cho phép để tẩu tán tài sản tham nhũng của đồng bọn.
CON CỦA LÊ ĐỨC THỌ .
Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải là anh của Phan Đình Đồng (bí danh là Mai Chí Thọ) và Phan Đình Dinh (bí danh là Đinh Đức Thiện). Cả 3 anh em đều không coi trọng dòng họ của tổ tiên, giữ bí danh cho đến khi chết, thậm chí con của Lê Đức Thọ vẫn mang họ Lê là Lê Nam Thắng hiện là Thứ Trưởng thường trực Bộ Thông Tin và Truyền Thông (nghĩa là thứ trưởng số 1, ưu tiên thay Bộ Trưởng). Mai Chí Thọ là Đại Tướng, trùm Công An miền Nam sau 1975, còn Đinh Đức Thiện được phong là Thượng Tướng, giữ nhiều chức vụ cao cấp mà chức vụ sau cùng là Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Như vậy cha con chú cháu đều nắm giữ các chức vụ then chốt trong đảng và chính phủ.
Lê Đức Thọ và Lê Duẩn có nhiều điểm giống nhau : độc tài, gian xảo, cầm quyền sinh sát trong đảng lâu năm (từ 1948 đến 1986), có vào Nam công tác (Xứ Ủy Nam Bộ 1948-54, chính ủy cuộc đại tấn công miền Nam 1975) và đặc biệt là dâm đảng.
Ông Bùi Tín nói rõ là 2 bà vợ của Lê Đức Thọ ở chung một nhà trên đường Nguyễn Cảnh Chân, Hànội, xưa là biệt thự của viên Hiệu trưởng trường Albert Sarraut, cùng ăn chung một bàn với ông chồng và con cái theo tinh thần Nam-Bắc đề huề. Đúng là một nhà tổ chức đại tài. (Mặt Thật, tr.177).
Trong Lớn lên với đất nước, tác giả Vy Thanh, một cựu đảng viên, sau trở về thành, du học ở Mỹ và trở về nước làm Tổng thơ ký một đại học VNCH xác nhận là Lê Đức Thọ đã dùng những thủ đoạn đê tiện hãm hiếp nữ cán bộ khi làm Xứ Ủy Nam Bộ. «Một đêm chị Thanh đang ngủ, bác Sáu (tức Lê Đức Thọ, mà trong khu gọi là Sáu Búa, chú thích của người viết) mò vô mùng chị. Chị sợ quá tốc mùng chạy la làng, làm lối xóm náo động. Đội bảo vệ bắn súng như Tây tới …» (Vy Thanh, tr. 290)
CON CỦA ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH
Tên là Nguyễn Chí Vịnh, sinh năm 1957, là con út của tướng Nguyễn Chí Thanh, và là em một cha khác mẹ với Nguyễn Tấn Dũng như lời đồn đãi Dũng là con rơi của Nguyễn Chí Thanh. Vịnh học ở trường đại học quân sự ở Vĩnh Yên, nhưng chưa tốt nghiệp, được tướng Lê Đức Anh, nguyên Bộ trưởng bộ Quốc Phòng rồi sau là Chủ Tịch nước nhận làm con nuôi (cũng giống như trường hợp của Dũng).
Nguyễn Chí Vịnh kết hôn với con gái của Đặng Vũ Chính, Tổng cục trưởng Tổng Cục 2 là một cơ quan có quyền hành vô hạn và ngân sách khổng lồ bao trùm các hoạt động tình báo, quốc phòng, kinh tế, văn hóa của nước. (Cộng Sản có nhiều Tổng cục (TC) như : TC An Ninh, TC Cảnh Sát, TC Tình Báo, TC Xây Dựng, TC Hậu Cần…Mỗi Tổng Cục có nhiều Cục, thí dụ như TC An Ninh có cục A25 đặc trách về báo chí, Cục A18 kiểm soát ngoại kiều và Việt kiều, Cục A41 đặc trách về tôn giáo, Cục A24 chuyên về kiểm tra, xét hỏi, Cục A42 theo dõi bắt bớ những người chống chế độ. Những Tổng Cục trưởng và Cục trưởng đa số là ủy viên Trung ương đảng hay hàng họ với lãnh đạo cao cấp).
Đặng Vũ Chính đưa cả gia đình vào nắm các chức vụ then chốt của Tổng Cục. Con rể là Nguyễn Chí Vịnh là Tổng Cục Phó, con trai là Đặng Vũ Dũng từ lao động xuất khẩu trở về nước giữ chức Giám đốc Công ty xây dựng Hồng Bàng, hai con gái là Đặng Thị Mai và Đặng Thị Tuyết mang quân hàm đại úy phụ trách công tác mật, vợ gốc là con buôn đảm nhiệm giám đốc Khách sạn Hoàng Đế và chi nhánh công ty Decatour ở miền Trung. Riêng Nguyễn Chí Vịnh, với sự nâng đỡ tận tình của cha vợ và cha nuôi được thăng cấp từ đại úy lên đại tướng trong một thời gian kỷ lục mà trong lịch sử quân đội chưa bao giờ có. Khi Đặng Vũ Chính về hưu, Nguyễn Chí Vịnh lên thay làm Tổng Cục Trưởng.
Bộ ba Đặng Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, Lê Đức Anh dùng nhiều thủ đoạn tinh vi như thu âm lén điện thoại, chụp ảnh (như khi Lê Khả Phiêu tằng tịu với 2 nữ nhân viên trong phái đoàn công du sang Pháp) để làm áp lực khuynh đảo các ủy viên trong Trung ương đảng hay các đối thủ bởi lẽ tất cả các chóp bu của đảng đều làm điều phi pháp, tham nhũng. Nhóm nầy còn tạo chiến dịch hạ nhục Võ Nguyên Giáp như Giáp là con nuôi của trùm mật thám Pháp Marty, Giáp là tướng bất tài, sợ chết (trong trận Điện Biên Phủ, Giáp nằm trốn trong hầm để cho Nguyễn Chí Thanh và Hoàng Văn Thái chỉ huy, nhưng khi thắng trận thì giành công; khi đánh Mỹ thì sợ bom nên không dám vào Nam), tằng tịu với vợ nhà văn Đào Vũ khi bà nầy đến dạy dương cầm. Sau khi làm mưa làm gió ở Tổng Cục 2, Vịnh được chuyển qua làm Thứ trưởng bộ Quốc Phòng và được đưa vào Ủy viên Trung ương đảng kỳ đại hội XI.
Nguyễn Chí Vịnh còn có người chị tên là Nguyễn Thị Thanh Hà có thời là Phó Cục Trưởng Cục Hàng không Việt Nam.
CON CỦA NGUYÊN CHỦ TỊCH LÊ ĐỨC ANH
Lê Đức Anh hiện là «bố già» trong đảng cộng sản mafia, là người lãnh đạo quân sự và chính trị cộng sản từ hơn nửa thế kỷ qua, cực kỳ thân Trung Quốc. Cả 2 ông đại tướng tên Anh (Lê đức Anh và Lê hồng Anh) đều là hai cây dù của Nguyễn Tấn Dũng (Đức Anh là dù to, Hồng Anh là dù bọc hậu) và cả hai đều xuất thân là phu cạo mủ cao su ở Hớn Quản.
Con trai của Lê Đức Anh là Lê Mạnh Hà hiện là Phó Chủ Tịch Ùy Ban Nhân dân TP HCM. Ông Hà được học bổng Fulbright du học ở Harvard từ 1998 đến 2000. Con dâu là Nguyễn thị Đoan là Phó Chủ tịch nước (thay Trương Mỹ Hoa) từ 2007 đến 2010. Bà Đoan có tiến sĩ ở Bulgarie và có tu nghiệp ở Pháp.
Được vào ủy viên Trung ương đảng là bảo đảm một chức vụ cao cấp, béo bở trong chánh phủ nên cuộc chạy đua vào chức vụ nầy thường diễn ra trong hậu trường với nhiều cuộc liên kết phe nhóm, tranh chấp ác liệt và đòn phép bẩn thỉu. Ngoài các nhân vật vừa kể, trong đại hội đảng lần thứ XI còn có các tân ủy viên sau đây :
– Nguyễn Xuân Anh sinh năm 1976 là con của Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ Chính Trị, Trưởng Ban Kiểm Tra trung ương. Nguyễn Xuân Anh nhảy vọt từ Bí thư huyện Liên Châu (Đà Nẳng) đi thẳng vào Trung ương đảng. Tháng 7/2011, Anh được bổ nhiệm Phó chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẳng và chắc chẳng bao lâu sẽ là chủ tịch, nắm giữ thành trì của miền Trung.
– Trần Sĩ Thanh, sinh năm 1972. Phó bí thư tỉnh ủy Darlac là cháu của Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ Tướng (Nguyễn Sinh Hùng là cháu của Hồ Chí Minh). Darlac hiện nay là một vùng béo bở, có nhiều tài nguyên và nhiều cơ sở kỹ nghệ của ngoại quốc đã và sẽ thành lập tại đây.
– Trần Bình Minh : Phó Tổng giám đốc đài truyền hình VN là con trai của Trần Lâm, nguyên Tổng giám đốc đài Tiếng nói VN.
– Nguyễn thị Kim Tuyến, Thứ trưởng Bộ Y tế là cháu ngoại của cố Tổng bí thư Hà Huy Tập.
Điểm đáng lưu ý là Cộng Sản đặt chỗ cho con cháu trước tiên vào ghế số 2 ở mỗi cơ quan bằng các chức vụ như phó (Phó Tổng Cục, Phó Cục, Cu Phó Giám đốc, Phó ban..), hay thứ (Thứ Trưởng) để chờ khi các ông số 1, vốn đang có những dù lộng cũng to để chiếm chỗ khi các ông số 1 về hưu, được điều động đi nơi khác để nhường chỗ, hay bị hất chân khi cái gốc không còn đứng vững.
Những hình thức « truyền ngôi » cho con cháu, hàng họ trong chế độ Cộng Sản
Không thể nào kể hết chi tiết các tên họ những 4C, bởi lẽ chế độ con ông cháu cha cộng sản chằng chịt ngang dọc từ trung ương đến địa phương như những dây leo, hay đúng ra như những tế bào độc hại của bịnh ung thư tràn lan khắp cơ thể, chúng tôi xin tóm tắt tổng quát cách truyền ngôi, tập quyền và tản quyền của hệ thống 4C theo như tổ chức mafia dưới 3 hình thức chính yếu là: tham chính, lập công ty kinh doanh, kết thông gia và bè đảng.
* THAM CHÍNH.
Thông thường, những người có học, có khả năng thường được đề cử, bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy trong các cơ quan của đảng hay chính phủ. Ngoài những nhân vật kể trên, cần kể thêm một số nhân vật đang tại chức hay vừa rời chức vụ gần đây.
– Nguyễn Thiện Nhân : Phó thủ tướng là con của y sĩ Đông Dương Nguyễn Thiện Thành, gốc người tỉnh Trà Vinh (có tài liệu ghi là Biên Hòa) một cán bộ cao cấp cộng sản đã tham gia từ phong trào Việt Minh. Mặc dù Nguyễn Thiện Nhân đậu tiến sĩ ở Đông Đức và có tu nghiệp ở Harvard, đã bị mất chức Bộ Trưởng bộ Giáo Dục vì bất tài nhưng lại thích phô trương, đã đưa nền giáo dục VN đến chỗ lạc hậu, nhưng vẫn được tiếp tục lưu nhiệm chức vụ Phó thủ tướng, đúng như lời mỉa mai của giáo sư Hoàng Tụy, một nhà giáo dục được trong nước và ngoại quốc nể trọng : Bộ giáo dục (ý nói ông Nhân) trơ như đá, vững như đồng.
– Phạm Bình Minh : hiện là Bộ Trưởng Bộ ngoại giao, con của Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương), phụ tá cho Lê Đức Thọ trong hội nghị hòa đàm Paris và là Bộ Trưởng bộ ngoại giao sau đó (1980-1991). Có tin là con của Phạm Bình Minh cũng đang du học ngành ngoại giao hi vọng nối nghiệp cha ông.
– Trần Tuấn Anh : nguyên lãnh sự Việt Nam tại Hoa Kỳ (San Francisco) là con của chủ tịch Trần Đức Lương.*
* LẬP CÔNG TY.
Những con cháu cán bộ cao cấp không có khả năng học vấn hay thiếu đạo đức (thực ra ông cha cũng đã thiếu đạo đức, nhưng thành phần các ông con nầy trác táng, lêu lỏng, không thể đảm nhiệm vai trò chỉ huy) thì quay ra kinh doanh, lập công ty. Thực ra những công ty nầy chỉ là bình phong để lợi dụng danh nghĩa của ông cha mà làm giàu phi pháp. Số 4C loại nầy thì kể sao cho hết bởi tràn lan khắp nơi ăn chịu với khắp các cơ quan. Chỉ đan kể vài tên con cháu của các cấp lãnh đạo ở Trung ương đảng.
CON RỂ CỦA VÕ NGUYÊN GIÁP.
Tên là Trương Gia Bình, là một tỷ phủ, giám đốc công ty FPT, là một trong những công ty lớn nhất nước cung cấp dịch vụ internet, truyền thông.
CON RƠI CỦA CỐ THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT.
Võ văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa, người được xem là cấp tiến, mở đầu cho phong trào đổi mới kinh tế. Nhân nói đến đứa con rơi của Võ văn Kiệt tên Phan Thành Nam, tưởng cần nói qua về đạo đức tồi tệ của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản.
Ông Hoàng Dũng, Thư ký Văn phòng Trung Ương đảng đã viết về lai lịch của Phan Thành Nam như sau : Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ biết rằng cụ Hồ gặp những khó khăn và thiếu thốn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình với người vợ cũ ở Trung Quốc nhưng bị phản đối, do vậy bộ Chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tình dục. Đặc biệt từ thuở còn thanh niên, cụ Hồ đã có một mối tình rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật nầy đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết «Đi tìm Út Huệ»). Biết thế nên lúc nầy Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục miền Nam phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một số cô gái còn trẻ đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong bộ Chính trị (đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ). Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt nầy. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc có một cô còn trẻ và sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Đến lúc sự việc vỡ lỡ thì cô gái đã có thai mấy tháng, thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là Phan Thành Nam.
Phan Thanh Nam hiện nay là một tỷ phú đỏ, Tổng Giám Đốc Công Ty quốc doanh Tracodi, chuyên về «xuất khẩu lao động», xuất cảng hàng hóa, xây cất và du lịch.
Điều cần nói thêm là ông Kiệt cũng có chính thức 2 vợ : bà vợ cả tên là Trần Kim Anh và 3 đứa con đã chết trong chiến tranh, chỉ còn lại đứa con gái tên là Võ Hiền Dư. Ông lấy vợ kế là Phan Lương Cầm nổi tiếng tham nhũng được các công ty đặt tên là Bà Mười Cầm vì tất cả các dự án đầu tư đều phải đóng «hụi chết » cho bà ít nhứt 10%.
CON CỦA NGUYÊN THỦ TƯỚNG PHAN VĂN KHẢI
Tên là Phan văn Tỵ tục danh là Hoàng Tỵ là một tay du đãng chọc trời khuấy nước, có lần vì tranh giành địa bàn buôn lậu đã bắn chết Phạm Văn Hưng là sĩ quan công an, con của Phạm Thế Duyệt cũng là đảng viên trong Trung ương đảng, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc. Về kinh doanh, Hoàng Tỵ lợi dụng thế lực của cha và của các đồng chí của cha, nhập cảng lậu xe hơi cũ rồi tân trang lại bán sang Trung Đông, nhập cảng xe đạp mới nguyên chiếc từ Thái Lan, Singapore đem tháo ra từng bộ phận rồi lắp ráp lại (bởi luật VN lúc ấy chỉ cho phép bán xe đạp lắp ráp ở VN), bán với giá gấp đôi gấp ba. Hoàng Tỵ cũng là chủ nhân của hai đại khách sạn Hoàng Gia và Planet ở Saigon và HàNội, cho du khách ở tại hai khách sạn nầy được ưu tiên khỏi bị xét hỏi khi đến và khi rời phi trường. Nhờ tất cá mánh khoé và thế lực, Hoàng Tỵ cũng là một tỷ phú.
CON TƯỚNG PHÙNG QUANG THANH, BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG.
Phùng Quang Thanh xuất thân là một bộ đội không có học thức nhưng nhờ phe cánh thân Trung Cộng trong đảng nên được phong quân hàm đại tướng, giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng từ nhiều năm nay. Con trai của Phùng Quang Thanh là Phùng Quang Hải, lý lịch cũng không ghi học lực và trường đào tạo, nhưng mang cấp bậc Thượng tá, là Tổng giám đốc Công ty xây dựng 319 là một công ty quốc doanh bao gồm hơn mươi công ty hoạt động trong lãnh vực xây cất, cung cấp vật dụng cho quân đội và các cơ quan chính phủ trên địa bàn khắp nước. Đây là một nguồn lợi khổng lồ cho gia đình họ Phùng và các phe cánh trong đảng để tham nhũng và độc quyền các lãnh vực béo bở.
Nếu cần phải kể thêm thành tích của những 4C vì ăn chia không đồng đều bị tố cáo hay bị ra tòa, hay bị làm vật tế thần thì có mấy vụ gần đây như Mai Văn Dậu, Thứ trưởng Bộ Thương Mại bị ra tòa cùng với con là Mai Thanh Hải vì tham nhũng trong việc xuất nhập cảng, Đoàn Văn Kiểm, chủ tịch Hội đồng Quản Trị Tập đoàn Than – Khoáng sản bị bãi chức vì cho phép em là Đoàn Duy Thức khai thác quặng mỏ trái phép, Phạm Thanh Bình, chủ tịch Hội Đồng Quản trị Tổng đoàn Công nghiệp Tàu Thủy VN bị bắt giam vì bổ nhiệm con trai là Phạm Bình Minh (một Bình Minh khác, không phải là Bình Minh con Nguyễn cơ Thạch) vào công ty Vinashin, Đỗ Trung Tá, Bộ trưởng bộ Bưu Chính Viễn Thông, bị cảnh cáo vì cho con rể là Hoàng Minh gian lận trong việc trúng thầu.
Đảng Cộng Sản Việt Nam cai trị bằng bạo lực và áp dụng luật mafia ngay trong hàng ngũ đảng viên cao cấp của họ theo kiểu mạnh được yếu thua. Trong sự phá sản hàng tỷ mỹ kim của công ty Vinashin, người chịu trách nhiệm là Nguyễn Tấn Dũng thì không hề hấn gì trong khi bộ trưởng Phạm Thanh Bình bị bắt giam vì một sự bổ nhiệm. Vụ ăn hoa hồng trong việc in giấy bạc polymer ở Úc (12 triệu Úc kim) liên hệ đến nguyên Thống đốc ngân hàng Lê đức Thúy đã có bằng chứng rõ ràng thì chẳng ai bị tù tội.
Lãnh đạo Việt Nam hôm nay làm trò hề và gây ô nhục cho đất nước mà không biết nhục. Vũ Văn Hiến, Ủy viên trung ương đảng, Tổng giám đốc Truyền hình VN gởi con gái tên Kiều Trinh sang Thụy Điển tu nghiệp bị cảnh sát Thụy Điển bắt vì ăn cắp trong siêu thị, bị báo chí trong nước phanh phui nhưng vẫn được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Văn hóa – Du Lịch của đài truyền hình, chưa kể Hiến đưa bè đảng vào cơ quan để tham nhũng, bị nhân viên các cấp tố cáo nhưng vẫn bình chân như vại.
*KẾT THÔNG GIA VÀ BÈ ĐẢNG.
Người Việt Nam ta có câu Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, những cán bộ cao cấp gian manh thường tìm gần nhau để hợp quần gây sức mạnh trong công cuộc trấn áp, bốc lộ lương dân. Những cuộc liên kết giữa các cán bộ qua các cuộc hôn nhân là một hình thức lưu chuyển quyền hành và tham nhũng theo hàng ngang và hàng chéo đến độ hệ thống tham nhũng Việt Nam hôm nay là những loại ung thư đang tàn phá một cơ thể chỉ chờ ngày bị tiêu hủy toàn diện. Dĩ nhiên không sao kể hết loại liên kết nầy, chỉ cần đan kể vài thông gia gần đây tạo nhiều tai tiếng to lớn.
Tại Việt Nam, nhắc đến tướng công an Nguyễn Đức Nhanh là người dân kinh sợ và khinh bỉ vì chánh sách đàn áp lương dân và tham nhũng của tên trùm công an nầy (đàn áp giáo dân Thái Hà). Nhanh đảm nhiệm 2 chức vụ : Phó Tổng cục trưởng Tổng cục 2 (tổng cục 1 : lo về tình báo hải ngoại, tổng cục 2 : lo về an ninh quốc nội) kiêm Giám Đốc Công An TP HàNội. Nguyễn Đức Nhanh kết thông gia với Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng bộ ngoại giao, Chủ tịch Ủy Ban nhà nước về người VN ở nước ngoài. Như vậy hai gia đình thông gia nầy đảm nhiệm vai trò chiến lược của đảng Cộng Sản và chánh phủ Việt Nam.
Trương Mỹ Hoa, Phó chủ tịch Quốc hội (2002-2007) là con của Trương Văn Đẩu, Tỉnh ủy viên Gò Công (cũng gốc là phu cạo mủ cao su) có em là Trương thị Hiền, Hiệu trưởng trường Cán bộ TPHCM, kết hôn với Lê Thanh Hải, Ủy Viên Trung ương đảng, Thành ủy TP Hồ Chí Minh. Lê Thanh Hải làm sui với Huỳnh Ngọc Sỹ nổi tiếng trong vụ tham nhũng xây xa lộ Đông Tây nối liền từ Bình Chánh đến Saigon, qua Thủ Thiêm chạy đến Cát Lái trên đường về miền Tây. Xa lộ nầy do Nhật viện trợ và giao cho công ty Nhật PCI xây cất, Huỳnh Ngọc Sỹ làm quản lý. Lúc đầu, Sỹ đòi hối lộ 15%, sau sụt xuống 10% và đã nhận 2,6 triệu MK thì bị báo chí Nhật phanh phui, 4 người đại diện công ty Nhật bị Nhật bắt giữ vì đưa hối lộ. Chánh phủ Nhật đòi Việt Nam phải có biện pháp chế tài với người nhận hối lộ là Huỳnh ngọc Sỹ nhưng VN vẫn binh vực Sỹ khiến Nhật trả đũa bằng cách ngưng tất cả tiền cho vay ODA và đòi lại 30 triệu tiền viện trợ, điều hiếm có trong lịch sử bang giao quốc tế. Trước áp lực của các quốc gia viện trợ cho VN và Mỹ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đành phải miễn cưỡng đưa Sỹ ra tòa với án chung than khổ sai, sau giảm xuống 20 năm tù. Thì ra Sỹ chỉ là vật tế thần của một tập đoàn tham nhũng, mà những án vụ tham nhũng như thế chỉ là hạn hữu trong số ngàn ngàn vụ tham nhũng chẳng bao giờ bị phanh phui bởi được bao che từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài và 700 cơ quan truyền thông trong nước chỉ là bầy két lập lại luận điệu của nhà cầm quyền. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vẫn có một vài ngoại lệ khi báo chí đăng tin tham nhũng liên quan đến 4C, hoặc vì nhà báo có lương tâm, hoặc vì thanh toán nội bộ bởi chia phần không sòng phẳng. Thí dụ như trường hợp khi báo chí đăng tin tiền in của công ty TechBank của Lê Đức Minh là con của nguyên thống đốc ngân hàng Lê Đức Thúy không có phẩm chất thì hai tờ báo Thời Đại và Công Lý bị đình bản, và 6 tờ báo khác như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thủ Đô, Công Luận…bị cảnh cáo.
Về chuyện nhà báo bị khủng bố vì dám đá động đến việc tham nhũng của các 4C, tưởng cũng nên nhắc lại một vụ tham nhũng lớn bị phanh phui cách đây 5 năm, nhưng vụ án đã bị ém nhẹm vì liên quan đến các thủ phạm ở chóp bu, nhưng hai phó tổng biên tập của báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt giam và 5 phóng viên bị thu hồi thẻ hành nghề vì tội phá hoại an ninh quốc gia. Vụ tham nhũng bị vở lở khi công an bắt được 2 cầu thủ cá độ ngày 13/12/2005 và cuộc điều tra cho biết Bùi Tiến Dũng, Tổng Giám ĐốcĐơn vị Quản Lý các dự án PMU-18 đã chi tiêu 2,6 triệu trong trò chơi cờ bạc nầy. PMU-18 (Project Management Unit) trực thuộc bộ Giao Thông Vận Tải (GTVT) là cơ quan phụ trách thực hiện xây cất các dự án cầu đường với số vốn 20 tỷ gồm ngân sách quốc gia và quỹ tài trợ ODA của Nhật, Tây Âu và Ngân hàng Quốc Tế (World Bank).
Bùi Tiến Dũng là con trai của Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Công An, cấu kết với Nguyễn Việt Tiến (Thứ trưởng Bộ GTVT), Phạm Tiến Dũng (Trưởng phòng tài chánh), rể của Nguyễn Việt Tiến cùng với Phạm Hoàng Hải, rể của Nông Đức Mạnh, Nguyễn Việt Bắc, rể của Đào Đình Binh (Bộ trưởng Bộ GTVT) cùng với nhiều bạn bè hàng họ lập ra hàng chục công ty để trúng thầu dù các công ty nầy không khả năng và không vốn. Tài sản tham nhũng của Nguyễn Việt Tiến, Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Việt Bắc, mỗi người trên trăm triệu MK. Báo Thanh Niên tiết lộ là có ít nhất 40 quan chức cao cấp liên quan đến vụ tham những khổng lồ nầy. Bị gọi ra thẩm vấn trước tòa án, Bộ trưởng Đặng Đình Binh tuyên bố «Tôi thuộc diện Trung ương quản lý» có nghĩa là chỉ trả lời với trung ương đảng mà thôi. Ngoài ra, 2 đảng viên cao cấp là tướng Cao ngọc Oánh, Cục trưởng Cục điều tra C15, Phạm Xuân Quấc, Cục trưởng Cục điều tra C14 cũng bị dính liếu, nhưng được miễn truy tố, rốt cuộc chỉ có Bùi Tiến Dũng và các « tép riêu» bị lãnh án.
Lâm Văn Bé
|
|
|
Post by VLN on Aug 20, 2015 15:52:34 GMT -6
Henry Kissinger bị dân Mỹ kêu gọi phải bị khởi tố
Vietlandnews.net
BBT: Tin tức dưới đây tuy đã cũ hơn nửa năm nay nhưng cũng nêu lên cho thấy dân Mỹ trắng không ngu ngơ như dân Mỹ gốc Mít mà những đại diện chỉ biết cắn xé nhau rất oanh liệt để chiếm giữ danh vọng nhưng lại trở nên phổng đá hèn trước hành vi ngang ngược của chính khách bạch diện bản xứ là Ted Osius... với lời biện bạch rằng "đó là policy của Mỹ … nên ta phải câm nín" !! Hãy noi gương anh dũng của họ để tranh đấu cho danh dự và quyền lợi của người mang chính nghĩa.
Henry Kissinger bị dân Mỹ kêu gọi phải bị khởi tố vì đã bán đứng Việt Nam và nhiều quốc gia khác trong thế kỷ 20 Nguồn: Vietlandnews.net Ngày 29 tháng 1, 2015, tại cuộc điều trần trước Thượng Viện Mỹ, Tiểu ban về Ngoại giao, trong nghị trình về những thách thức toàn cầu và chiến lược an ninh quốc gia Mỹ tại Capitol Hill, viên cựu bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger đã bất ngờ đối diện với một nhóm hoạt động xã hội có tên gọi là CodePink. Nhóm này đã xông thẳng vào nghị trường và hô to các khẩu hiệu đòi đưa Henry Kissinger ra tòa vì đã bán đứng Việt Nam và nhiều quốc gia khác trong thế kỷ 20, gây nên tai họa tàn khốc cho nhiều dân tộc.
Thượng nghị sĩ John McCain đã phản ứng dữ dội với những người biểu tình trong việc làm náo loạn buổi điều trần, gọi họ là “bọn cặn bã hạ lưu”, sau khi cảnh sát đưa những người biểu tình ra khỏi đó. Mặc dù sự kiện diễn ra hết sức kịch tính, nhưng vẻ mặt của Henry Kissinger vẫn điềm nhiên. Được mô tả như là một con cáo già quỷ quyệt của tình báo ngoại giao, Henry Kissinger vẫn được chính phủ Mỹ trọng dụng, mặc dù rất nhiều nhà phân tích chính trị đã chỉ rõ là những sách lược của ông ta từ những năm 60-70 đã gây tổn hại tức thì cho nhiều quốc gia, cũng như về sau đó của nước Mỹ. Với những ai quan tâm đến cuộc chiến Việt Nam, thì vẫn còn nhớ nhân vật Henry Kissinger, người phục vụ dưới thời Tổng thống Nixon, và cho tới nay vẫn bị nguyền rủa rủa bởi những người ủng hộ nhân quyền về cách dàn xếp của của ông trong hậu trường chiến tranh Việt Nam, bao gồm cả hành động tàn bạo khác nhau, trên khắp hành tinh trong hơn nửa thế kỷ. Những thành viên của nhóm hòa bình CODEPINK đã giương khẩu hiệu, gọi Henry Kissinger là tội phạm chiến tranh. Một người đã tiến tới gần Henry Kissinger và giơ chiếc còng số 8 vào mặt ông ta.
Mặc dù bị áp giải ra khỏi nghị trường ngay sau đó, nhưng nhóm hoạt động CodePink nói rằng họ thực sự tự hào về hành động của mình tại Thượng viện ngày 29 tháng 1, 2015, vì đã thay mặt cho nhân dân Đông Dương, Trung Quốc, Đông Timor và nhân dân yêu chuộng hòa bình ở khắp mọi nơi, nói vào mặt của Henry Kissinger về tội ác của ông ta. Medea Benjamin, người đồng sáng lập tổ chức CodePink nói rằng "Henry Kissinger phải chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu người. Ông ta là một kẻ sát nhân, một kẻ nói dối, một kẻ lừa đảo, và là một kẻ côn đồ. Ông ta cần phải được đưa ra trước vành móng ngựa tại Hague." Băng video ghi lại giây phút ấn tượng này đã được truyền đi khắp nơi, những người biểu tình từ nhóm CodePink đã hô vang, "Phải bắt giữ Henry Kissinger vì tội ác chiến tranh!". Những tiếng hô này càng lớn hơn ngay khi Kissinger bước vào phòng họp của Thượng viện. "Di sản thật sự của Kissinger để lại chỉ là sự hủy diệt. Ông là nhân vật phản diện vĩ đại của Mỹ." Anna Kaminski, thành viên của nhóm CodePink nói với báo chí. Để biết thêm về những gì mà Henry Kissinger đã gây ra, CodePink nói tất cả mọi người cần tham khảo thêm về… Việt Nam: Từ năm 1969 đến năm 1973, Kissinger, làm việc cho Richard Nixon, gây ra một cuộc chiến tàn khốc giữa hai miền Nam Bắc. Sau đó, vì muốn đi đêm với Trung Cộng trong chính sách bảo vệ Đài Loan và bỏ rơi miền Nam Việt Nam, Campuchia và Lào, Henry Kissinger đã để mặc cho 3 nước Đông Dương này rơi vào thảm trạng. Nửa thế kỷ sau, tàn dư từ những bài toán của Henry Kissinger vẫn còn làm tan nát con người và các đất nước này. Đặc biệt sự sụp đổ của chế độ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã trở thành một vết nhơ khó quên trong lịch sử của Hoa Kỳ. Chile: Henry Kissinger là một trong những kiến trúc sư chính của cuộc đảo chính ở Chile vào ngày 11 Tháng 9 năm 1973, một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ dân cử của tổng thống Salvador Allende. Đất nước này đã phải chịu 16 năm đàn áp, tra tấn và tử vong dưới sự cai trị của một người bạn của Kissinger, trùm độc tài phát xít Augusto Pinochet. Đông Timor: Năm 1975, trong khi làm việc cho Tổng thống Gerald Ford, Kissinger vận động phê duyệt việc yểm trợ cho nhà độc tài Suharto của Indonesia xâm lược đẫm máu những hòn đảo nhỏ của Đông Timor. Các cuộc xâm lược này đã được thực hiện với vũ khí trang bị của Mỹ. Thời gian chiếm đóng Indonesia cuối cùng kết thúc vào năm 1999, với kết quả 200.000 dân Timor (30 phần trăm dân số) đã bị xóa sổ. Nhà văn Jon Queally, người bảo vệ hành động của nhóm CodePink nói rằng “Những trang sử đẫm máu đó chính là di sản của Kissinger: Cái chết, Sự tàn phá, Đau khổ cùng cực. Chế độ độc tài. Henry Kissinger chính là một kẻ giết người, một kẻ nói dối, một kẻ lừa đảo, một kẻ côn đồ.”
(Lược dịch từ Reverbpress / Ảnh: Reuters - Gary Cameron)
|
|
|
Post by BCT on Nov 10, 2015 12:30:54 GMT -6
Ai đứng đằng sau “Terror in Little Saigon”?
Tác giả: Ngọc Lan Người chuyển bài: Tran Ho 2015-11-09 Trong phỏng vấn của Báo Người Việt, ông A.C. Thompson, người thực hiện phim “Terror in Little Sai Gon” đã cho biết Tony Nguyễn là người đã đề nghị, hợp tác và hướng dẫn ông làm phóng sự điều tra về cái chết của 5 nhà báo Việt Nam từ 1981 đến 1991. Trong phim, webstory dài 72 trang và kể cả trong bài phỏng vấn nói trên, A.C. Thompson đã không đưa ra bất cứ chứng cứ gì mới mà hoàn toàn dựa trên những đồn đãi, phát biểu vô trách nhiệm của một số người để cáo buộc Mặt Trận là sát thủ của các vụ án nói trên. Tại sao ông A.C. Thompson lại tốn bao nhiêu thì giờ, công sức, tiền bạc để làm một đoạn phim dài 1 tiếng đồng hồ mà không đưa ra được những thông tin gì mới? Hơn thế nữa ông A.C. Thompson đã cố tình bác bỏ hoàn toàn kết luận của cơ quan điều tra liên bang Hoa Kỳ (FBI) là không có đủ chứng cứ để truy tố ai, sau 15 năm điều tra và đã đóng hồ sơ vào giữa thập niên 90. Động lực của A.C. Thompson trong việc thực hiện đoạn phim với tựa đề mang tính giật gân “Khủng bố tại Sài Gòn Nhỏ” này là gì? Câu trả lời phần lớn nằm ở người đã hướng dẫn và hợp tác với A.C. Thompson thực hiện cuộn phim này chính là Tony Nguyễn.
Director Tony Nguyen Tony Nguyễn là ai? Tony Nguyễn là một thanh niên khoảng 40 tuổi, tốt nghiệp đại học Berkley, là ổ thân cộng và phản chiến nổi tiếng ở miền Tây nước Mỹ vào thập niên 70s-80s. Trong một cuộc phỏng vấn của Báo Tuổi Trẻ vào tháng 8/2004, Tony Nguyễn đã cùng một vài bạn trẻ lập ra nhóm Viet Unity để tạo cầu nối giữa Việt Nam với cộng đồng người Việt tại Mỹ, và đến tháng 5/2014 tổ chức buổi hội thảo về chiến thắng Điện Biên Phủ tại Oakland, nhằm công khai hoạt động. Báo Dân Trí của CSVN (ngày 2-5-2005) đã có một bài viết về hoạt động của nhóm Viet Unity và Tony Nguyễn như sau: “Những người ‘kết nối’ đất mẹ Ở California có một nhóm Việt kiều trẻ tên gọi Viet Unity. Những ngày cuối tháng 2 (2005) nhóm này tổ chức một cuộc triển lãm về các pano cũ phản đối chiến tranh ở Việt Nam cách đây 30 năm. Các thành viên của nhóm đã quyết tâm tổ chức cuộc triển lãm bất chấp những ý kiến phản đối và lời đe doạn của một số ít người Việt khác mà đa phần ở tuổi cha chú của họ. Tony Văn Nguyễn là một thành viên của nhóm Viet Unity. Anh cho rằng ở Mỹ, nhiều người lớn tuổi trong cộng đồng còn có tư tưởng bảo thủ. Họ vẫn còn giữ quan điểm của chế độ Sài Gòn trước năm 1975. Theo Tony, thế hệ trẻ phải vượt lên lối mòn ấy, phải có suy nghĩ ít gây hại hơn mà cụ thể, chính họ phải là nhịp cầu nối giữa những người Việt tại Mỹ với đất mẹ.” Vào tháng 6/2005, nhóm của Tony Nguyễn cũng đã cực lực chống lại Nghị quyết SCR17 “Công Nhận Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ” của tiểu bang California, và cũng chống lại việc thành phố Garden Grove, Nam California thông qua nghị quyết cấm các cán bộ CSVN đến vùng Garden Grove. Sau vụ chống này, các hoạt động của Tony Nguyễn tập trung vào việc cổ võ cho chủ trương hòa hợp hòa giải với CSVN, giúp đỡ các nạn nhân chất độc gia cam ở Việt Nam; đồng thời mạnh mẽ phê phán cộng đồng người Việt hải ngoại là cực đoan, chống cộng quá khích. Để minh chứng cho điều này, từ giữa năm 2008, Tony Nguyễn đã tự nghiên cứu thực hiện một phim tài liệu liên quan đến cái chết của Dương Trọng Lâm, một thanh niên thân Hà Nội bị bắn chết tại San Francisco vào tháng 8/1981. Phim lấy tên là “Enforcing the Silence”, mô tả về cái chết của một người thanh niên đã bị thành phần chống cộng cực đoan sát hại. Mặc dù lúc đó một tổ chức có tên là Diệt cộng hưng quốc đảng công khai nhận trách nhiệm về vụ này; nhưng Tony Nguyễn vẫn cáo buộc Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đã ra tay sát thủ. Phim nói trên hoàn tất và ra mắt vào giữa Năm 2011, theo như Tony Nguyễn là để đánh dấu 30 năm ngày Dương Trọng Lâm bị giết. Mặc dù phim được tổ chức Veteran for Peace, một tổ chức thân Hà Nội và ủng hộ mạnh mẽ chiến dịch đòi Hoa Kỳ bồi thường nạn nhân vụ chất độc da cam, cổ võ nhưng không có hiệu quả. Năm 2014, Tony Nguyễn gặp A.C. Thompson tại Oakland và theo lời kể của Thompson thì chính Tony Nguyễn là người đã thuyết phục thực hiện thiên phóng sự điều tra vụ 5 ký giả Việt Nam bị giết nhưng chính quyền Hoa Kỳ đã làm ngơ. Nhóm làm phim có mục đích gì? Qua cuộc phỏng vấn với tờ Los Angeles Times và Hanalei Somar khi ra mắt cuốn phim “Enforcing the Silence” năm 2011, Tony Nguyễn đã đưa ra những chủ điểm chính mà ta thấy xuất hiện y hệt trong phim “Terror in Little Saigon” như sau: - Kết tội Mặt Trận đứng đằng sau 5 cái chết của ký giả người Việt tại Mỹ. - Kết tội chính phủ Hoa Kỳ đứng sau lưng đồng lõa với Mặt Trận để che lấp tội ác. - Đưa ra hình ảnh cực đoan, giết người bịt miệng, khủng bố của những tổ chức đấu tranh và tập thể cựu chiến sĩ VNCH. Cả hai cuốn phim, dù với một số chi tiết khác nhau, nhưng đều cùng dựa trên một luận cứ, mục tiêu nhằm vẽ lên hình ảnh khủng bố của cộng đồng mà chính quyền Mỹ đã làm ngơ. Mục tiêu của Tony Nguyễn là muốn vận động dư luận nhằm triệt hạ uy tín của tổ chức Mặt Trận và quan trọng hơn là bôi nhọ tập thể quân nhân QLVNCH là thành phần cực đoan, đang cản trở chủ trương hòa giải hòa hợp với chính quyền CSVN. Nhìn như vậy, chúng ta thấy động lực chính của Tony Nguyễn là cho sống lại vụ án 5 ký giả bị giết để qua đó bôi bác hình ảnh cộng đồng người Việt thành cực đoan, quá khích. Có phải là để dọn đường cho sự xuất hiện của một lực lượng thân cộng mà chính Tony Nguyễn đang lãnh đạo qua Viet Unity? Ai đứng sau Tony Nguyễn? Phim Terror in Little Sai Gon chiếu trên hệ thống PBS toàn quốc vào lúc 10 giờ đêm (giờ phía Đông) ngày 3/11, tức 10 giờ sáng giờ Việt Nam ngày 4 tháng 11. Nhưng tại Việt Nam, tờ Thanh Niên Online (tờ báo của Hội Liên Hiệp Thanh Niên CSVN) đã không chỉ đăng tin mà còn kèm theo một số nội dung, hình ảnh trong phim phóng sự này vào lúc 6 giờ sáng giờ Việt Nam ngày 4/11, tức 4 tiếng đồng hồ trước khi PBS chiếu chính thức. Không những thế, ngay ngày 4/11 Thanh Niên Online còn cho biết là ProPublica, nơi A.C. Thompson làm việc, đã gửi E Mail yêu cầu Thanh Niên giúp loan tải thông điệp kêu gọi nhân chứng cung cấp thông tin các vụ ám sát nhà báo gốc Việt do nhóm K-9 thực hiện. Thanh Niên Online đã đăng đường dẫn Youtube mà Thompson của ProPublica đã kêu gọi: “’Hãy giúp chúng tôi điều tra những vụ ám sát 5 nhà báo Mỹ gốc Việt’, và tìm câu trả lời cho nghi vấn: ‘Tại sao giới hữu trách Mỹ không giải quyết được việc này’. Ai đã đưa phim và những kêu gọi giúp điều tra cho Thanh Niên Online? Chắc chắn A.C. Thompson không thể làm được điều này. Người làm việc này không ai khác hơn là Tony Nguyễn. Nói cách khác, chính Tony Nguyễn là người đã dàn đựng để cho giới truyền thông CSVN nhập cuộc rất sớm, khai thác những tiêu cực quanh “Terror in Little Saigon” hầu tấn công chúng ta. Chính Tony Nguyễn đã cho báo LA Times biết cuốn phim “Enforcing the Silence” đã nhận nguồn tài trợ từ Việt Nam (Nguyen said the film has received strong financial backing from people all over the U.S., Canada and Vietnam). Sự kiện CSVN bỏ tiền mua ảnh hưởng ở Hoa Kỳ xuyên qua chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng 8/2015 của Nguyễn Phú Trọng [qua bài viết “How Hanoi buys influence in Washington, D.C” của tác giả Greg Rushford – ngày 4-8-2015] cho thấy là càng lúc CSVN càng muốn lũng đoạn truyền thông Mỹ, để qua đó tác động những tiêu cực lên cộng đồng. * Terror in Little Sai Gon không đơn thuần là phim phóng sự điều tra mà là phim dựa vào 5 án mạng chưa tìm ra hung thủ để tiếp tục bôi nhọ Mặt Trận, cộng đồng người Việt, và chính nghĩa đấu tranh của dân tộc.
Ngọc Lan
|
|
|
Post by From RFA on Jul 16, 2018 13:52:22 GMT -6
Việt Nam trước viễn cảnh Trung Quốc chiếm trọn biển Đông
Các hành động gia tăng căng thẳng của Trung Quốc
Đánh giá về các hoạt động mới nhất của Trung Quốc tại Biển Đông, Giáo sư Trần Ngọc Vương từ Hà Nội nhắc lại Bắc Kinh đã, đang và sẽ tiếp tục sách lược “tạo sự đã rồi” trên Biển Đông và nguy hiểm hơn chiến thuật “lát cắt salami” là chiến thuật “bào mòn” đang được áp dụng.
“Họ cứ bào mòn từng bước một, bào mòn từng tý một, để rồi cuối cùng cái gì mà họ đã cầm được ở trong tay, thì họ không bao giờ buông ra. Đó là con đường mà họ đang làm.”
Theo GS. Trần Ngọc Vương, trong tương lai gần, các đảo, đá, thực thể nổi mà Việt Nam nắm giữ sẽ không bị Trung Quốc đụng tới, bởi nguy cơ chiến tranh, nhưng tâm lý bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia ở nơi đảo xa của đại đa số người dân Việt Nam có vai trò quan trọng.
“Người dân không trông thấy cái gì ở dưới, chỉ nhìn thấy cái gì nổi lên trên thôi, ta chưa có gì trên đó. Cho nên là cái của trời đất, chỗ ấy nó (Trung Quốc) ra nó xí thì thôi mình yếu, mình kệ nó vậy. Cái tâm lý ấy mà hàng triệu, hàng chục triệu người nghĩ là thành vấn đề lớn. Bởi vì họ không thấy cái đấy là của mình để mà mất.”
Phản ứng của cộng đồng quốc tế ngày càng gia tăng
Trước các hành động quân sự, leo thang căng thẳng của Trung Quốc trên Biển Đông, cộng đồng quốc tế đã có những phản ứng kịp thời, mạnh mẽ và có sự gia tăng về mức độ.
Ngày 25/4/2018, Thượng viện Canada đã thông qua bản kiến nghị lên án mạnh mẽ "thái độ thù địch và leo thang" của Trung Quốc trên Biển Đông, đồng thời thúc giục các bên liên quan đến tranh chấp chủ quyền tuân thủ quyền tự do hàng hải và hàng không trong khu vực theo đúng luật pháp quốc tế.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đưa ra quan điểm vấn đề hòa bình và an ninh trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cần dựa vào luật pháp quốc tế và phản đối chính sách “bá quyền” trong bối cảnh hiện tại nhân chuyến công du Australia hồi đầu tháng 5/2018.
Chia sẻ quan điểm của nước Pháp, Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull nhìn nhận, “Một trong các nguyên tắc quan trọng của luật pháp đó là cá lớn không thể nuốt cá bé, lẽ phải không đương nhiên thuộc về kẻ mạnh”. Úc đã nhiều lần phê phán Trung Quốc quân sự hóa, gia tăng căng thẳng trên Biển Đông và đã điều tàu chiến tới khu vực này để thực hiện tự do hàng hải.
Trong khi đó, Ấn Độ gia tăng sự hiện diện hải quân tại Biển Đông và liên tiếp có những chuyến ghé thăm của các nhóm tàu chiến tới các cảng quan trọng của Việt Nam. Mặt khác, Ấn Độ củng cố mối quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và đặc biệt là với Nhật – Hoa Kỳ - Úc trong chiến lược “Indo-Pacific” để kìm hãm sự bành trướng của Trung Quốc.
Các quốc gia Đông Nam Á có lợi ích trên Biển Đông như Malaysia, Indonesia và Philippines bằng cách riêng của mình cũng thể hiện phản ứng với Trung Quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.
Còn Hoa Kỳ, ngoài các phát ngôn phản đối Trung Quốc, cường quốc này đã quyết định rút lại lời mời Hải quân Trung Quốc tham gia cuộc tập trận quốc tế định kỳ có tên RIMPAC 2018 ngoài khơi Hawaii. Gần nhất, ngày 27/5/2018, Hoa Kỳ đã điều 2 chiến hạm đi vào vùng 12 hải lý quanh các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa để thực hiện tuần tra, thực hành quyền tự do hàng hải (FONOP).
Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng – Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan nhìn nhận, tuy phản ứng của cộng đồng quốc tế ngày càng đi xa hơn về mức độ và cách thức phản ứng thực chất hơn, hành động nhiều hơn, nhưng chưa thể ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc.
“Bởi vì đây nằm trong một chiến lược tổng thể, nằm trong “vành đai – con đường”, nằm trong ý đồ bành trướng ở toàn khu vực. Tuy nhiên, Trung Quốc phải hiểu rằng, với tư cách là một thành viên của P5 (Ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an LHQ) mà Trung Quốc tiếp tục hành động như vậy, thì rõ ràng, hình ảnh của Trung Quốc sẽ bị tổn thương trên trường Quốc tế.”
Tuy nhiên, theo đánh giá của GS. Trần Ngọc Vương, Trung Quốc đang vấp phải những khó khăn trong việc thực hiện chiến lược “vành đai – con đường” trong đó có Biển Đông, do nhiều quốc gia “nhận trái đắng” đang xem xét lại việc hợp tác. Nhiều quốc gia đã và đang thay đổi chính sách với Trung Quốc, trong đó có Australia và Malaysia.
“Trung Quốc muốn thôn tính thế giới, nhưng trong thực chất, họ vẫn phải trải tiềm lực ra, công sức ra trên địa bàn chính trị quá rộng so với thực lực đang có của họ. Cho nên, đấy là cái điểm “lực bất tòng tâm”.”
Việt Nam với những diễn biến mới trên Biển Đông
Trong các hoạt động ngoại giao song phương và đa phương, Việt Nam luôn nhận được sự chia sẻ và ủng hộ về quan điểm giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, phản đối việc thay đổi hiện trạng và quân sự hóa trong khu vực tranh chấp.
GS. Trần Ngọc Vương cho rằng, đây là một điều thuận lợi cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia.
“Nhiều nước họ bảo vệ, ủng hộ Việt Nam theo tinh thần như vậy. Họ bảo vệ cái gọi là công pháp, công lý, công đạo, chứ không phải vì Việt Nam, mà vì lẽ phải ở đời này, trên thế giới này. Không cứ nước ấy có quan hệ thân thiện hay không thân thiện với Việt Nam.”
TS. Đinh Hoàng Thắng cũng nhìn nhận phản ứng của cộng đồng quốc tế và xu hướng hiện nay đang có nhiều thuận lợi, nên Việt Nam cần có thái độ mạnh mẽ hơn, vận động quốc tế ở mức cao hơn trước các thách thức hiện hữu. Trong đó, các dự án hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam với các đối tác nước ngoài như Repsol của Tây Ban Nha, Exxon Mobil của Mỹ, … trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý luôn bị Trung Quốc gây sức ép, đe dọa dẫn đến gián đoạn hoặc hủy bỏ, gây ra thiệt hại kinh tế lớn.
|
|
danlambaovn.blogspot.com
Guest
|
Post by danlambaovn.blogspot.com on Jul 16, 2018 13:55:35 GMT -6
Giao "đặc khu kinh tế" cho tàu 99 năm, chỉ là âm mưu mua bán nước giữa 2 tên cướp lớn và cướp bé TC-VC! - (Hồn Nước - DLB)
Trong những ngày này khắp cả nước đang rộ lên một tin làm chấn động cả thế giới, là nhà cầm quyền CSVN đã thông qua việc giao ba “đặc khu kinh tế” là Vân Đồn ở cực bắc của VN, Vân Phong ở miền Trung, và Phú Quốc ở cực Nam của VN cho Tàu cộng trong 99 năm, nói gọn gàng là một thế kỷ, tương đương với 3 thế hệ người VN ! Quốc hội chuẩn bị bỏ phiếu, nhưng dư luận cho biết có thể số phiếu thuận tới 95%, vì đó là “chủ trương lớn” của nhà cầm quyền CSVN, đã được Tập Cận Bình chỉ thị cho, và thủ tướng CS Nguyễn Xuân Phúc đã ký. Khi được chất vấn tại sao giao đất cho Tàu 99 năm, thì Phúc trả lời: “Nếu ai ở địa vị này (thủ tướng) cũng phải giao, không có cách gì khác!”, được hiểu là Phúc bị áp lực của Tàu: “dao kề cổ, súng kề màng tang” nên không giao không được! Để mọi người có một ý niệm rõ về việc giao đất 99 năm này, chúng ta nên lưu tâm đến mấy trọng điểm: I. Đặc khu kinh tế (ĐKKT) là gì? Nhà cầm quyền CSVN lấy cớ là để “phát triển đất nước”, nên giao những “đặc khu” này cho “nước ngoài” để họ phát triển nhanh chóng các khu này! Có thật như vậy không? Thật hay không thì chúng ta hãy suy nghĩ: 1. Khi giao ĐKKT thì nhà cầm quyền bên giao phải giảm hay miễn thuế dài hạn, để kích thích bên nhận đầu tư kinh doanh phát triển khu đất đó. Có khi là không được thu thuế trong thời gian dài hay suốt thời gian giao, tùy theo sự thương lượng, và tùy theo “thế mạnh” của bên nhận giao, mà bên nhận đây là Tàu cộng, là cha của VC! Nếu vậy thì lợi ở chỗ nào, ngoại trừ việc kẻ giao tức nhà cầm quyền VC, sẽ cầm được ngay một số tiền, mà ai cũng biết số tiền đó chỉ có kẻ cầm quyền nắm hết chứ dân nước không có lợi gì! 2. Nếu giao với chủ đích để phát triển đất nước, thì tại sao không giao cho các nước khác có tiềm năng hơn như Mỹ, Nhật, Canada, Úc, Pháp, Đức…, mà lại chỉ giao cho Tàu? Phải chăng thời điểm mật ước Thành Đô CSVN phải bàn giao nước cho Tàu vào 2020 đã gần kề, nay Tàu muốn lấy trước một số khu vực trọng yếu trên, nên buộc VC giao sớm, và cho VC một số tiền để chúng thi hành lệnh của Tàu cộng, vì VC đang rất cần tiền! 3. Tại sao lại phải giao đất cho tới 99 năm? Trong khi nếu làm kinh tế, không ai cần tới hàng thế kỷ như vậy! Hiện tại trên thế giới không một nước nào giao đất cho ngoại bang với thời gian đó, 50 năm cũng không có, trừ VC! Chỉ cần một vài chục năm là nhà đầu tư có thể phát triển hay không, nếu được thì thuê tiếp, không được thì giao lại. Hãy nhìn gương của Hồng Kông mà Tàu thời phong kiến đã cho Anh thuê 99 năm, nay sau 99 năm thì Anh giao lại cho Tàu với điều kiện phải kéo dài thêm 50 năm giữ nguyên trạng, tức là HK vẫn tự trị, theo một đường lối chính trị, kinh tế riêng. Hiện nay HK muốn tách hẳn khỏi Tàu, làm một nước riêng mà Tàu không làm gì được! Phải hiểu là HK may mắn được Anh thuê và phát triển mảnh đất này theo thể chế tự do dân chủ, theo kiểu Anh chứ không theo kiểu Tàu, nên bây giờ nó không còn giống Tàu nữa, và rất xa lạ với "chính quốc", rất may là nó tốt hơn nhiều so với Tàu CS! 4. Thử hỏi sau 99 năm giao cho Tàu, những vùng đất này sẽ ra sao? Trước nhất, thằng Tàu chệt không hề có ý định “phát triển” những khu này, mà ngay lập tức, như chúng đã làm, chúng biến các vùng này thành đất của Tàu, ngay lập tức chúng di dân Tàu qua định cư, sinh sôi nẩy nở cái giòng giống Tàu! Còn nữa, Tàu sẽ coi đây như một vùng tự trị, đưa quân đội qua trấn giữ, không cho người VN được bén mảng vào khu của chúng, giống như Formosa ở Vũng Áng, Bauxite ở Tây Nguyên! Trong đó chúng toàn quyền cất giấu những gì VN không thể biết, nhất là những đặc khu này đều nằm trên biển hoặc sát biển, thuận lợi cho việc đột nhập từ biển vào. Điều chắc chắn là chúng sẽ ém quân đội và giấu vũ khí ở đó, nếu động sự thì chúng tung người và vũ khí ra! Vì nằm giữa đất VN, chúng có thể dễ bề đem người của chúng ra phá hoại, đầu độc những vùng lân cận, đưa những bọn tội phạm, côn đồ mà chúng đã yểm sẵn ra đánh phá các khu khác rồi rút vào đặc khu này, mà chính quyền VN không thể làm gì được! Tóm lại, đây là những đốm đen trên lớp da vàng VN, là những ngòi nổ, là nơi tiềm ẩn bất cứ thứ nguy hiểm độc hại nào như lò nguyên tử, nhưng người Việt thì bất khả xâm phạm vào những đặc khu đó! VN nếu phát hiện cũng đành chịu thua, rồi sau 99 năm thì nơi đó là những Crimea như của Nga từng chiếm của Ukraina, không bao giờ trở lại của VN nữa! Xin đừng nghĩ rằng đó là “suy nghĩ quá đáng”, hãy nhìn biển Đông và các mỏ dầu nằm trong thềm lục địa VN, được quốc tế công nhận, thế mà VN khai thác thì Tàu đuổi chạy có cờ để cho chúng cướp, trước mắt cả quốc tế! Chúng ta đã mất biển đảo, mất đất nước hết rồi! 5. Theo những nhà quan sát, thì cả 3 vùng đặc khu đó đều là những vị trí chiến lược trọng yếu mà Tàu đã tính toán kỹ, rồi mới ra lệnh cho tà quyền CSVN phaỉ giao cho chúng, chứ không phải là những nơi khác! Nhà cầm quyền CSVN hiện đã là tay sai, là tên nô lệ thuần thục của Tàu rồi, nhất nhất thi hành mọi lệnh của Tàu mà thôi ! II. Nhà cầm quyền CSVN và cái quốc hội của nó đã cướp chủ quyền đất nước của người dân VN để bán nước cho Tàu! Trước hết phải xác định: Ngay cả những chính quyền hợp pháp thì cũng không có một chính phủ nào trên thế giới được quyền bán nước hay giao từng vùng lãnh thổ cho ngoại bang, trong khi người dân không đồng tình. Bọn cầm quyền CSVN là bọn tà quyền, đã cướp nước từ tay chính quyền dân cử Trần Trọng Kim năm 1945. Cái “cuốc hộ” bù nhìn này cũng do chúng dựng nên chứ không do tranh cử và bầu cử tự do. Cả bè lũ này đã được nuôi dưỡng bằng đồng lương do thuế của người dân, nay sau khi ăn tàn phá hoại, chúng lại còn bán nước của người dân cho thằng cướp đàn anh là Tàu cộng, đẩy đưa toàn dân vào vòng nô lệ Tàu, được sao hỡi toàn dân? Dùng bạo lực, dùng trấn áp để hù dọa chúng ta, VC coi dân như một bày gà vịt mà chúng đem bán cho tên quỷ đỏ Tàu cộng làm thịt cả dân tộc ta là sao? Chúng ta đành cúi đầu chấp nhận chăng? Biên giới phía Bắc VC đã mở cửa cho Tàu ra vào như chỗ không người, dân Tàu đã tràn ngập khắp nước. Tại Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, nhiều người dân đã mở cửa hàng chỉ tiếp khách Tàu, xua đuổi khách Việt và cả các nhà báo! Dân VN bây giờ rất nhiều người đã bị CS nhồi nhét chủ nghĩa tam vô, khiến họ không còn ý thức về quốc gia dân tộc, lại thêm thấm nhuần tính ích kỷ, tham lam, vô trách nhiệm, chỉ còn biết tới lợi lộc , biết tiền bạc và sẵn sàng làm nô lệ cho Tàu, không còn biết đến tổ quốc, dân tộc là gì! Thật quá xót xa và nhục nhã! Các nhà trí thức có lòng với tổ quốc đã lên tiếng phản đối về việc giao 3 đặc khu cho Tàu 99 năm, nhưng nếu chỉ dừng lại ở những bài viết mà thôi thì không thể đủ để ngăn chặn việc bán nước này! Hỡi những con dân VN, chúng ta phải làm gì cho cho tổ quốc, cứu nguy cho dân tộc, nhất là tự cứu mình đi chứ?! Chúng ta đành làm những con ếch bị CS luộc cho chín và chết trong nồi sao? Hãy xuống đường ngay, với những khẩu hiệu: - CHỐNG CSVN BÁN NƯỚC CHO TÀU ! - PHẢN ĐỐI NHÀ CẦM QUYỀN CSVN GIAO CÁC ĐẶC KHU KINH TẾ CHO TÀU ! - NƯỚC VN CỦA NGƯỜI VN, KHÔNG CÓ CHỖ CHO GIẶC TÀU ! - TÀU CỘNG HÃY CÚT KHỎI VN ! - NHÀ CẦM QUYỀN CS HÈN VỚI GIẶC HÃY TRẢ LẠI QUYỀN LÀM CHỦ ĐẤT NƯỚC CHO DÂN ! - TÀ QUYỀN VÀ QUỐC HỘI CSVN KHÔNG PHẢI LÀ ĐẠI DIỆN CỦA DÂN, KHÔNG ĐƯỢC KÝ GIAO ĐẤT 99 NĂM CHO TÀU ! - TRỪNG TRỊ ĐÍCH ĐÁNG NHỮNG TÊN HÁN NÔ, NGHỊ GẬT KÝ GIAO ĐẤT CHO TÀU ! - NHÀ CẦM QUYỀN CSVN PHẢI TỔ CHỨC TRƯNG CẦU DÂN Ý ĐỂ DÂN QUYẾT ĐỊNH VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC ! Ít nhất thì những biểu ngữ với nội dung như trên phải được in ra thật nhiều, dán ở khắp nơi, hay in thành những truyền đơn để phổ biến trong dân chúng, hầu thức tỉnh họ, và kêu gọi lòng yêu nước của họ. Tại sao khi dàn khoan HD981 của Tàu cộng vào lãnh hải VN năm 2014, dân ở khắp 3 miền đã đồng lòng xuống đường chống Tàu, và đập phá các công ty nhà máy của Tàu, mà bây giờ tình hình đã nguy cấp gấp bội, thì cả nước lại như ngủ mê?! Người yêu nước không còn sao? Các đoàn thể tranh đấu đâu hết rồì? Nếu chúng ta không lên tiếng lúc này, để cho VC bàn giao xong các đặc khu cho Tàu, tiến đến là bàn giao cả nước cho giặc, thì chúng ta sẽ không còn cơ hội nữa đâu, và quốc tế sẽ coi như đó là ý của toàn dân VN, làm sao họ cứu giúp chúng ta nữa? Giờ phút nguy nan này, toàn dân hãy vùng lên kẻo chết và mất nước! Tất cả mọi thành phần dân chúng, nhất là giới lãnh đạo các tôn giáo, giới trí thức, và cả những người CS còn có tâm, còn biết lo cho sự sống của chính mình và con cháu, hãy cùng đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng đất nước khỏi ách CS và thoát ngoại xâm! CHÚNG TA HÀNH ĐỘNG NGAY HAY LÀ CHẾT !
Hồn Nước danlambaovn.blogspot.com
|
|
|
Post by From RFA on Jul 18, 2018 8:24:31 GMT -6
Nếu Việt Nam Cộng hòa còn tồn tại
Nhiều người nghĩ rằng nếu Việt Nam Cộng hòa vẫn còn tồn tại thì chúng ta sẽ có 1 quốc gia tuyệt vời và mọi vấn đề sẽ được giải quyết. Liệu mọi việc có đơn giản như vậy?
“Tự do mang đến nhiều khó khăn và dân chủ không phải là hoàn hảo…” Việt Nam Cộng hòa sẽ vẫn là quốc gia có rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Đó là điều chắc chắn. Nếu không tin hãy nhìn những cường quốc 5 châu mà Việt Nam của Hồ Chí Minh mong có 1 ngày được sát cánh thì rõ.
Mỹ - Cường quốc số 1 thế giới có lúc nào không phải đau đầu để giải quyết các vấn đề quốc nội và quốc tế? Trong nước là tình trạng chênh lệch giàu nghèo, vấn đề kiểm soát súng đạn, “chính phủ hoạt động kém hiệu quả”… và trên hết bị đánh giá là “quốc gia không tiến bộ”.
Châu Âu còn nan giải hơn nữa, đó là suy thoái kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao… Cả Châu Âu và Mỹ đều chia sẻ vấn đề nhập cư bất hợp pháp và khủng bố Hồi giáo.
Nhật Bản thì là thiếu hụt lao động, tỷ lệ tăng lương chậm, các vụ bê bối công nghiệp và khối nợ khổng lồ của chính phủ, đặc biệt là già hóa dân số. Báo Việt Nam đưa tin về cuộc sống của người già ở Nhật không khác gì địa ngục, họ phải đi ăn cắp để được vào tù. Người vì ở bên ngoài phải sống chật vật với trợ cấp xã hội, đi tù để không phải lo lắng tài chính; người vì thiếu sự quan tâm nên cố vào tù để được chăm sóc. Nhà tù Nhật vì thế đối diện với khó khăn mới: ban ngày phải thuê điều dưỡng viên để phục vụ đi vệ sinh, tắm rửa; ban tối nhân viên nhà tù phải làm cả công việc của điều dưỡng viên. Chi phí cho nhà tù vì thế tăng vọt.
Một ví dụ rõ ràng nhất là Hàn Quốc – Một đất nước với thể chế chính trị y chang Việt Nam Cộng hòa cũng có bao giờ yên ổn. Tổng thống Nam Triều Tiên khi thì bị ám sát, khi thì tự sát vì bị điều tra tham nhũng, mới đây còn bị bắt đi tù.
Các nước giàu nói chung và Hàn Quốc nói riêng không phải là thiên đường, họ cũng gặp khó khăn trong mọi lĩnh vực. Bóng đá Hàn Quốc mạnh nhất nhì châu Á, nhưng sau vòng chung kết U23 Châu Á vừa rồi, huấn luyện viên Kim Bong-gil bị sa thải vì chỉ đưa đội bóng lọt vào đến bán kết.
Thế nên chẳng có gì lạ cả khi Việt Nam Cộng hòa nếu còn đang tồn tại cũng sẽ đầy rẫy những vấn đề xã hội. Lúc còn là “Hòn ngọc Viễn Đông”, là niềm mơ ước của Singapore, có bao giờ người Việt Nam Cộng hòa cảm thấy thỏa mãn với đất nước của mình?
Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn bị chỉ trích để rồi bị lật đổ. Sau đấy là Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh, có ông nào được ngợi ca?
Nhưng đó có phải là tất cả? Các quốc gia đều có vấn đề cả đấy, nhưng không giống nhau!
Nhìn việc Huấn luyện viên U23 Hàn Quốc bị sa thải mà nghĩ rằng họ đang gặp vấn đề thì lầm to! Họ vào bán kết đã là thất bại vì họ đã quen vô địch hoặc chí ít về nhì. Còn chúng ta chỉ cần thế thôi là đủ đi vào lịch sử, vì có mấy khi làm được? Như vậy bị chỉ trích chưa chắc đã kém, được khen ngợi chắc gì tốt hơn.
Đội bóng đá Việt Nam Cộng hòa trước đây chưa bao giờ coi Thái Lan là đối thủ, nhưng nếu còn tồn tại, đội bóng ấy có thỏa mãn được người dân không? Cũng không nốt, vì khi vô địch Đông Nam Á rồi, nếu không vươn lên tầm châu lục thì cũng chẳng ai hoan nghênh, huấn luyện viên tuyển Việt Nam Cộng hòa vẫn sẽ bị sa thải như thường. Vậy đấy, cùng là khó khăn nhưng không giống nhau.
Tổng thống Nam Triều Tiên từ trước đến nay chẳng ai được ngưỡng mộ, nhưng họ vẫn giàu có văn minh. Còn lãnh tụ của Bắc Triều Tiên từ đời ông đến đời cháu đều được dân tôn sùng, chẳng có ông nào bị bắt vì tham nhũng, thậm chí bị nghi ngờ cũng không. Người dân miền Bắc dù nghèo đói đấy, nhưng hạnh phúc vì được ngắm lãnh tụ. Người dân miền Nam giàu có, nhưng luôn bức xúc với lãnh đạo. Dân cả 2 miền đều khổ cả, nhưng không giống nhau.
Ở Mỹ thỉnh thoảng lại có vụ xả súng, số người chết trong vụ đẫm máu nhất lịch sử nước Mỹ ở Las Vegas là 59 người, nghe thì kinh hãi, nhưng so với trung bình 41 người chết một ngày vì tai nạn giao thông (15.000 người một năm) thì chắc chả là gì. Vụ xả súng kinh hoàng nhất lịch sử bang Texas năm ngoái làm 27 người thiệt mạng, chỉ bằng khoảng một nửa số người ra đi ở Việt Nam chỉ tính riêng việc tham gia di chuyển trên đường hàng ngày như đã nêu trên.
Trong 5 ngày Tết cổ truyền Việt Nam vừa rồi có 155 người chết vì tai nạn giao thông, 2800 ca cấp cứu vì đánh nhau. Chết ở Mỹ gây kinh hoàng, chấn động thế giới; chết ở Việt Nam thì là chuyện thường, không ai biết đến. Ở đâu cũng có người chết, nhưng không giống nhau.
Nhiều người Việt Nam đọc báo viết về cuộc sống của người già ở Nhật Bản, tưởng rằng mình thật may mắn khi được sinh ra ở Việt Nam, họ không nhớ rằng ở Việt Nam làm gì có cái gọi là trợ cấp xã hội để ít nhất duy trì cuộc sống, số người già không có tiền tích lũy ở Nhật cũng không chiếm số đông, và nhà tù ở Việt Nam ngay người trẻ còn không chịu nổi.
Châu Âu đau đầu về vấn đề nhập cư từ Trung Đông, chúng ta thì không, nhưng cũng chẳng có gì để tự hào cả vì làm gì có ai muốn di cư đến Việt Nam.
Việc Sài Gòn có thật sự là “Hòn ngọc Viễn Đông” hay không, có thực là Lý Quang Diệu hâm mộ Việt Nam Cộng hòa hay không, điều đó không quan trọng. Một số người Cộng sản có thể phủ nhận nó, nhưng họ không thể phủ nhận Việt Nam Cộng hòa là một nước khá giả. Ngay báo chí Việt Nam Cộng sản hiện nay thỉnh thoảng vẫn đăng ảnh các thành phố miền Nam trước 1975 sạch đẹp quy củ chứ không bát nháo như bây giờ. Cứ cho là Sài Gòn ngày xưa “nhận vơ” là Hòn ngọc Viễn Đông, nhưng Việt Nam hiện tại cho “nhận vơ” cũng chả dám nhận.
Người Cộng sản nói rằng Sài Gòn là “ổ điếm”, vậy họ không mong được một lần trong đời được du lịch Thái Lan hay Nhật Bản chăng? Chắc chắn chẳng tìm được ai như vậy. Và Việt Nam hiện tại không thể so sánh với những nước này về gần như mọi mặt, may ra có mại dâm thì không kém, chỉ có điều nó không hợp pháp thôi. Người ta hợp pháp nó, nó công khai, nhưng rạch ròi. Còn anh thì giấu giấu giếm giếm nhưng bẩn thỉu, vô đạo đức gấp vạn lần.
Người Việt Cộng sản cho rằng nằm mơ mới có chuyện Việt Nam Cộng hòa bằng được những nước Hàn Quốc, nói vậy khác nào khẳng định rằng người Việt Nam kém cỏi căn bản, dù có cố thế nào, có theo thể chế nào cũng chỉ làm thuê cho các nước Châu Á khác. Tại sao lại có thể có suy nghĩ hẹp hòi nhỏ mọn đến vậy? Tại sao không chọn làm một nước khá giả ít nhất mấp mé với những nước kia mà lại chọn làm một nước nghèo chỉ đi làm thuê cho họ? “Việt Nam Cộng hòa giàu vì Mỹ đổ tiền”? Vậy sao không chọn để giàu mà lại chọn Nga, Tàu để nghèo bền vững?
Về việc này người Đức đã có câu trả lời từ lâu, người Cộng sản Đức đã chọn chạy về phía giàu có văn minh hơn, họ tự đạp đổ bức tường Berlin – nơi mà năm 1963, Tổng thống Mỹ John Kennedy đã nói: “Tự do mang đến nhiều khó khăn và dân chủ không phải là hoàn hảo, nhưng chúng tôi không bao giờ phải dựng lên một bức tường để ngăn người dân rời bỏ đất nước”.
Hà Nội, 7 tháng 4 năm 2018
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
|
|
|
Post by From RFA on Jul 18, 2018 8:28:28 GMT -6
Việt Nam Cộng hòa có thật sự thua trận? Người Việt Nam Cộng sản cho rằng Việt Nam Cộng hòa đã thua trận thì chẳng còn tư cách gì để nói người khác. Nhưng thắng thua liệu có phải là tất cả? Cuộc chiến không công bằng Một cuộc đấu võ đúng tinh thần thể thao phải diễn ra trên võ đài với đầy đủ luật lệ và yêu cầu về hạng cân thì mới công bằng. Đương nhiên cũng có loại đánh nhau trên đường phố bất chấp luật lệ. Giống như thời La Mã, ngoài võ sĩ trên đấu trường thì còn có những võ sĩ thi đấu vô luật lệ dưới hầm mỏ. Nhưng không phải chiến thắng nào cũng như chiến thắng nào. Ngoài đường phố nếu dùng mọi trò bẩn hoặc thắng một đối thủ quá chênh lệch thì có gì vinh hạnh? Võ sĩ La Mã chỉ có thể giành được vinh quang trên đấu trường, chứ không phải chiến thắng vô luật lệ ở hầm mỏ - nơi dơ bẩn và bị khinh bỉ. Trong chiến tranh cũng thế, đâu phải cứ là chiến tranh thì anh có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào để giành phần thắng. Nếu nói cứ đánh nhau là bất chấp luật lệ, thì anh còn ngồi vào bàn để ký mấy cái hiệp định làm chi? Nếu là một tổ chức tự phát như tổ chức khủng bố chẳng hạn, thì không cần luật lệ; còn khi đã là một quốc gia thì phải có luật chứ. Sau này Việt Nam Cộng sản chẳng xin vào các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, Liên Hợp Quốc, WTO… để nâng cao vị thế là gì? Và đã xin vào thì phải chấp nhận luật của người ta, đâu dùng luật rừng được nữa. Có nghĩa là gì, nếu muốn được tôn trọng như một quốc gia thì phải có luật pháp và tôn trọng luật pháp. Kể cả chiến tranh cũng vậy. Chiến tranh Việt Nam không phải là chiến tranh quy ước - loại chiến tranh mà các lực lượng tham chiến của mỗi bên đã được xác định rõ. Phe Việt Nam Cộng sản trộn lẫn vào trong dân gây khó khăn cho Việt Nam Cộng hòa, vì bản chất của chiến tranh là tiêu diệt đối phương, nhưng nếu giết dân thì thế giới lại lên án. Khi không thể xác định rõ kẻ thù thì đánh kiểu gì? Rất nhiều người nghĩ rằng kiểu “Chiến tranh du kích” ấy là bình thường. Nó không bình thường đâu! Mỹ cũng có một cuộc nội chiến Nam – Bắc. Khi phe miền Nam sắp thua cuộc, Bộ tham mưu của tướng Lee đề nghị phân tán lực lượng, ẩn nấp trong nhà dân, trong rừng núi để đánh du kích nhưng vị tướng chỉ huy quân đội miền Nam đã từ chối vì “Chiến tranh là nghiệp của người lính, là nhiệm vụ của chúng ta, không được đẩy trách nhiệm này vào người dân vô tội. Cho dù ta là tướng bại trận cũng không thể dùng cách này, nếu phải dùng sinh mạng của mình để đổi lấy bình an cho người dân miền Nam thì ta thà lựa chọn trở thành tội phạm chiến tranh và chịu hành quyết còn hơn”. Nó khác hẳn với Chủ nghĩa Cộng sản sẵn sàng “hy sinh tất cả” hay “phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” để đạt được mục đích. Phía Bắc Việt huy động mọi thành phần dân tộc tham gia cuộc chiến gồm cả phụ nữ, trẻ em lẫn người già – một đối tượng là phái yếu cần được bảo vệ, một đối tượng cần phải cho ăn học, một đối tượng đã đến lúc nghỉ ngơi mà phải chịu đói khổ, dấn thân vào nguy hiểm chết người. Cái gọi là cuộc chiến “của toàn dân tộc” ấy chẳng có gì đáng để tự hào cả. Người Việt Nam Cộng hòa không coi chiến tranh là tất cả, không dồn tất cả để đánh nhau, họ còn phải sống, làm việc và phát triển; vì thế, tất nhiên chỉ có quân đội chiến đấu. Trong quân đội ấy chỉ có nam giới đủ tuổi đi quân ngũ, không người già, không trẻ em và phụ nữ không phải tham gia tác chiến. Lực lượng tham chiến hai bên như vậy đã không rõ ràng (phía Cộng sản), lại còn không cân bằng. Việc cho cả trẻ em, người già tham gia chiến tranh còn một mục đích khác, đấy là tạo nên sự thương sót của dư luận nếu những đối tượng này tử trận. Nó giống việc đặt các cơ sở quân sự gần các khu dân cư, bệnh viện… vậy. Người dân đáng lẽ ra là đối tượng được bảo vệ thì lại bị đem ra làm bia đỡ đạn. Cuộc chiến còn không công bằng ở chỗ Việt Nam Cộng hòa là một đất nước tự do dân chủ, người dân có quyền chỉ trích, biểu tình, mà có nước tự do dân chủ nào mà lãnh đạo làm hài lòng được người dân? www.rfa.org/vietnamese/news/ReadersOpinions/what-if-the-republic-of-vietnam-survived-04132018130758.htmlViệt Nam Cộng hòa tất nhiên còn tự do báo chí – điều tối kỵ trong chiến tranh. Thế nên mới có chuyện ông Nick Út được đi theo lính miền Nam để chụp ảnh, máy bay đánh bom tiêu diệt Cộng sản nhưng ai ngờ lính miền Bắc xâm nhập chui vào nơi có dân để chốn. Dân chạy ra cầu cứu lính Việt Nam Cộng hòa thì bị Nick Út giơ máy ảnh lên chụp xong đăng lên toàn thế giới mà ai nhìn vào cũng nghĩ rằng “lính Mỹ ăn thịt trẻ em Việt Nam”. Vậy mà bức ảnh ấy cũng có thể trở thành biểu tượng của chiến tranh Việt Nam được? Bức ảnh chỉ nói lên một nửa sự thật ấy khi về Mỹ được trao giải Pulitzer – giải thưởng danh giá bậc nhất cho báo chí để rồi cả nước Mỹ lên án cuộc chiến. Như thế thì còn đánh đấm gì? Mai Chí Thọ từng nói toạc với tù nhân chính trị rằng: “Hồ Chí Minh có thể là một kẻ độc ác, Nixon có thể là một người vĩ đại. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng tôi có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại vì chúng tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một người vĩ đại, rằng Nixon là một kẻ giết người và người Mỹ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt là kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. Chỉ có chủ nghĩa Marx-Lenin là có thể làm được điều đó”. Chính vì sự giả dối ấy nên những vụ giết người của Bắc Việt với cách thức không khác gì khủng bố như đánh bom nhà hàng Mỹ Cảnh, ném lựu đạn vào dân đang xem hát ở Cần Thơ hay thảm sát Huế Mậu Thân chẳng hạn thì bị xem nhẹ, dường như người nào sống ở miền Nam đều đáng chết cả. Còn khi người Cộng sản bị chết thì lại thành sự kiện nổi tiếng. Quân đội Mỹ luôn tin vào chính nghĩa nên luôn hành động chính trực, thẳng thừng giữa thanh thiên bạch nhật, chính vì vậy nên dễ bị hiểu lầm. Họ đã thua trên mặt trận tuyên truyền trước những kẻ nham hiểm. Tại sao dám vu khống Mỹ xâm lược khi họ chỉ giúp giữ chế độ tự do dân chủ ở miền Nam? Việt Nam Cộng hòa chỉ lo phòng thủ chứ đâu có đánh ra Bắc. Mỹ chỉ ném bom vì miền Bắc đã xâm phạm miền Nam. Trong khi Mỹ vẫn xử phạt binh lính nếu có hành động đi quá giới hạn thì Bắc Việt lại trao huân chương cho những kẻ đánh bom khủng bố chết dân thường. 2 thái cực hoàn toàn trái ngược cho thấy truyền thông đã hết sức bất công. Trong một cuộc chiến mà trọng tài chỉ bênh một bên thì bên kia có cơ hội giành phần thắng? Một ví dụ nữa là phe Cộng sản luôn cố tình tạo cho người ta cảm giác rằng họ với vũ khí thô sơ phải đánh nhau với một phe được trang bị vũ khí hiện đại. Thực tế bộ đội miền Bắc không hề thiếu vũ khí, ra trận là có đạn “bắn thoải mái” do Nga Tàu cung cấp; đó là sự hỗ trợ tương đương nhưng kín đáo. Chính vì vậy nói rằng miền Nam không làm được gì khi không có Mỹ là không công bằng, miền Bắc nếu không được viện trợ từ nước ngoài thì chắc chắn phải cưỡi ngựa bắn cung để ra trận, vì họ đâu có tự sản xuất ra được đạn dược, xăng dầu… Thắng rồi để làm gì? Người Việt coi việc Nhật Bản “phải chấp nhận để Mỹ đóng quân” là kém cỏi, nhưng gặp người Nhật thì không khác gì gặp thánh sống. Người Việt cũng xem việc Triều Tiên không thể thống nhất đất nước là không bằng Việt Nam, nhưng bây giờ thậm chí không dám mơ có ngày được như Nam Triều Tiên. Nói đâu xa, Việt Nam Cộng hòa bị coi là “đu càng” , nhưng những cư dân “đu càng” như cầu thủ bóng đá Lee Nguyễn, đầu bếp Christine Ha thì được trọng vọng hơn bất cứ đồng nghiệp nào tại Việt Nam. Thù lao mà Lee Nguyễn nhận được khủng khiếp đến mức cho đến nay không ai biết đích xác là bao nhiêu, chỉ biết rằng trong 2 năm ngắn ngủi ở Việt Nam, cầu thủ “đu càng” này nói rằng đã kiếm đủ cho phần đời còn lại. Chắc chắn không một cầu thủ Việt Nam Cộng sản nào dám mơ có một ngày đội bóng quê hương sẽ trả mức lương như vậy cho mình. Gia đình Việt Nam Cộng sản cũng co ro cúm rúm khi tiếp đón gia đình Việt Nam Cộng hòa “đu càng” từ Mỹ, Pháp… trở về, đi ăn cũng gia đình “đu càng” trả tiền. Vậy thì ai thắng ai? Ai mang tư thế của người chiến thắng? Thái Lan không dám đánh nhau, Nhật Bản từng thua trận, Đức cũng thua, Pháp thì khỏi nói: nổi tiếng về đánh nhau kém. Nhưng hỡi ôi, đánh nhau quan trọng đến thế ư? Chỉ những anh choai choai mới khoái đánh nhau như thế. Chả trách mà Tản Đà làm thơ: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn. Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.” Mà ngay trong cái việc đánh nhau thôi, tại sao anh không tiếc xương máu lúc đánh nhau với Pháp, Mỹ, mà giờ động đến một chữ Trung Quốc cũng không dám? Suốt ngày tự hào đánh Pháp đánh Mỹ nhưng nếu có ai nhắc đến giặc Tàu là cả quan lẫn dân đều nạt ngay: “Thế muốn chiến tranh hay hòa bình? Nó mà đánh cho thì…”. Chao ôi, dân tộc “Việt Nam anh hùng” đây ư? Té ra việc chửi giặc Pháp giặc Mỹ hàng ngày là do biết chúng nó là người quân tử, chúng nó người lớn không thèm chấp mình, chứ chẳng phải mình anh dũng anh hùng gì cho cam. Cái giá của thủ đoạn đê hèn Nói tóm lại rằng: bất chấp luật lệ, dùng mọi thủ đoạn để thắng không phải hành động của người quân tử. Việt Nam Cộng hòa cũng như các nước văn minh khác: tôn trọng pháp luật ngay cả trong thời chiến – lúc mà đáng lẽ có thể áp dụng tình trạng khẩn cấp hay thiết quân luật để siết chặt quyền tự do dân chủ. Người Cộng sản có thể mãi hát bài ca chế giễu phe thua cuộc nhưng trên thực tế, người Việt Nam Cộng hòa lên tiếng chỉ vì họ còn có tâm với đất nước đấy thôi. Sau năm 1975 họ được các nước giàu có văn minh dang tay đón nhận, họ có cuộc sống sung túc ở nơi mà chỉ số ít doanh nhân và chủ yếu là con cháu quan chức Cộng sản mới có cơ hội đặt chân đến. Người Việt Nam Cộng hòa ừ thì “thua” đấy, nhưng họ được sống cùng những người quân tử. Còn những người “chiến thắng” ở lại, khi anh không phải người quân tử, sẽ có thằng không quân tử khác trị anh. * Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
|
|