|
Post by BắcTrung Nam on May 13, 2015 10:17:22 GMT -6
Thời sự vòng quanh thế giới !!!
|
|
@Đàn Chim Việt - TG Trần B Nam
Guest
|
Post by @Đàn Chim Việt - TG Trần B Nam on May 13, 2015 13:50:11 GMT -6
Trật tự thế giới dưới mắt Henry Kissinger
Trần Bình Nam: Ông Henry Kissinger vừa xuất bản cuốn “World Order” (Penguin press, sách dày 432 trang, giá $36.00). Ông Wolfgang Ischinger, cựu đại sứ Đức tại Hoa Kỳ (2001-2006) và tại Anh (2006-2008) viết nhận xét dưới nhan đề “The world according to Kissinger: How to defend global order” đăng trong tạp chí Foreign Affairs số March/April 2015. Sau đây là các ý chính trong bài viết của ông Wolfgang Ischinger.
Dùng nhan đề “Trật tự Thế giới” một cách chắc nịch như vậy cho cuốn sách mình viết mà không sợ bị giới nghiên cứu cho là hợm hĩnh có lẽ chỉ có ông Henry Kissinger. Tiến sĩ Henry Kissinger, nguyên Cố vấn an ninh quốc gia và Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ được nhiều người hâm mộ nhưng cũng lắm kẻ ghét cho là người quá nhiều thủ đoạn với bạn cũng như thù. Người có cảm tình cho ông là nhà ngoại giao tinh lọc được sự khôn khéo của nghành ngoại giao Hoa Kỳ mặc dù qua cuốn sách “World Order” ông vẫn chưa chia tay với lối nhìn trật tự thế giới theo khuôn mẫu cũ .
Năm 2014 là năm có nhiều biến cố trên thế giới. Chiến tranh tại Syria đã giết chết mấy trăm ngàn người, và nhóm jihadist(1) làm toàn vùng Trung đông lên cơn sốt. Tại Á châu Trung quốc tự tin vào thế đứng của mình và đang là một mối bận tâm cho các nước láng giềng. Tại Tây Phi châu, bệnh Ebola xuýt làm cho nhiều nước mất hẵn trên bản đồ thế giới. Và tại Âu châu, vùng đất tôn trọng trật tự quốc tế nhất cũng đang bị Liên bang Nga dùng sức mạnh đe đọa thay đổi ranh giới quốc gia hiện hữu. Điều đáng lo khác là các lực lượng vốn có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình thế giới như Hoa Kỳ, Cộng đồng Âu châu, NATO cũng đã có dấu hiệu mệt mỏi sau hai cuộc chiến tốn kém tại Afghanistan và Iraq.
Trong khung cảnh đó ông Kissinger vốn là một sử gia và một nhà chiến lược xác định lại “thế nào là trật tự thế giới” và đề ra cách thức xây dựng.
Theo ông, “trật tự thế giới” là một cách nhìn về sự phân chia quyền lực chính trị của một địa phương hay của một nền văn hóa mà họ nghĩ có thể áp dụng cho cả thế giới (“world order” as “the concept held by a region or civilization about the nature of just arrangements and the distribution of power thought to be applicable to the entire world.”
Ông Kissinger nói một “trật tự” như vậy cần 2 yếu tố: (1) một hệ thống quy tắc ứng xử xác định giới hạn hành động của mỗi quốc gia hay của một nền văn hóa, và (2) một sự cân bằng thế lực có khả năng trừng phạt quốc gia hay văn hóa nào vi phạm các nguyên tắc ứng xử đã đồng ý với nhau để ngăn không cho một thế lực nào dùng sức mạnh ép các thế lực khác.
Theo quan niệm đó, quyền lực trên thế giới không phải chỉ là sức mạnh kinh tế và quân sự mà còn là sức mạnh của tư tưởng và ý chí, nhất là ý của kẻ mạnh. Theo ông Kissinger các quan niệm cổ điển từng làm cái khung giúp duy trì hòa bình thế giới trong 4 thế kỷ qua như “quyền chủ quyền” và sự “không can thiệp” vẫn còn có giá trị .
Hôm nay cái khung đó nhòa đi chút ít vì các thế lực chính trị đang lên dùng các khung chính trị khác nhau để duy trì trật tự như “dựa vào tôn giáo” (theocracy), “quyền lực tư bản” (autocratic capitalism) và “hiện tượng hậu văn minh” (postmodernity). Nhưng dựa vào gì đi nữa – theo Kissinger – cái mẫu nào mang hai yếu tính “hợp pháp quốc tế” và “cân bằng quyền lực” mới có khả năng tồn tại. Trong suốt cuốn sách Kissinger không quên nhấn mạnh một nguyên tắc là: đừng vất bỏ một cái khung tổ chức ổn định thế giới nào nếu chưa tìm thấy một cái khung khác có hiệu quả như cái khung cũ .
** Kissinger cho rằng hệ thống quốc tế hiện nay là sáng kiến của các lãnh tụ quốc gia trong thế kỷ thứ 17 tại Âu châu qua hội nghị Westphalia họp tại Westfalen, Đức, sau một trận chiến tranh dài mà cao điểm là “trận chiến tranh 30 năm” từ 1618 đến 1648 (2). Thỏa ước đạt được đề ra quan niệm “chủ quyền quốc gia” và “quyền chủ quyền” là viên đá góc của trật tự thế giới . Một trăm năm mươi (150) năm sau, tại Hội nghị ở thành Vienna (Congress of Vienna) 1814-1815 hai nhà ngoại giao Pháp Talleyrand và Áo Klemens von Metternich chính thức công bố nguyên tắc “cân bằng thế lực” và áp dụng nguyên tắc này vạch lại ranh giới lãnh thổ quốc gia của hầu hết các nước Âu châu sau các xáo trộn do cuộc cách mạng Pháp 1789 và các cuộc chiến tranh của Napoleon.
Hai nguyên tắc “chủ quyền” (Westphalia), và “cân bằng quyền lực (Vienna) được tiến sĩ Kissinger đề ra đối với việc duy trì ổn định thế giới hôm nay không được các nhà khoa học chính trị đồng ý cho là quá đơn giản trong một thế giới quá phức tạp nhưng cũng phải đồng ý với nỗ lực trí tuệ đầy tự tín của ông.
Đương nhiên thực tế cho thấy cái quan niệm về quốc gia và chính trị của Tây phương được áp đặt từ thời đại thuộc địa đến nay đã phải chật vật tranh đấu với các luồng tư tưởng khác. Thí dụ tại Trung đông. Ở đó sự tranh chấp không phải là “quốc gia” và “chủ quyền” mà là giữa hai giáo phái Shiite và Sunni của đạo Hồi .
Cái trật tự Westphalia một thời ngự trị tại Trung đông đang bị đe dọa bởi phong trào Hồi giáo không biên giới như phong trào chính trị Muslim Brotherhood, phong trào Jihad chống văn hóa Tây phương như al-Qaeda và Quốc gia Hồi giáo ISIS. Theo Kissinger phong trào ISIS đang làm biến thể quan niệm “quốc gia trong một biên giới xác định” thành một cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc đậm màu sắc tôn giáo có khả năng đưa Trung đông đến hỗn loạn và chiến tranh như chiến tranh tại Âu châu thời tiền Westphalia.
Kissinger đặc biệt nghiên cứu quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran. Một bên, Hoa Kỳ chủ trương duy trì trật tự thế giới theo mẫu Westphalia, một bên -Iran – muốn nằm ra ngoài cái trật tự đó. Kissinger đi ngược dòng lịch sử của Iran trở về đế quốc Ba Tư để giải thích tại sao Iran luôn luôn bị dằng co giữa hai ý niệm “một quốc gia” hay “một lý tưởng”. Và sự theo đuổi một lý tưởng của Iran làm cho cuộc thương thuyết chương trình nguyên tử của Iran trở nên phức tạp. Ông Kissinger cho rằng để thuyết phục Iran, nghệ thuật ngoại giao chưa đủ, Hoa Kỳ cần dùng nguyên tắc cân bằng thế lực bằng cách liên kết khối Sunni để cân bằng với khối Shiite của Iran.
Ông Kissingr tiên đoán cuộc thương thuyết nguyên tử giữa Hoa Kỳ và Iran hiện nay sẽ đưa đến kết quả: Hoặc Iran trở thành quốc gia lãnh đạo cuộc cách mạng Hồi giáo hay trở thành một nước lớn khép mình trong khuôn khổ của hệ thống Westphalia . Ngoài Trung đông, Á châu cũng là nơi quan niệm ổn định Tây phương đụng chạm với quan niệm tổ chức địa phương. Tiến sĩ Kissinger chỉ ra rằng, danh từ Á châu do người Tây phương nặn ra sau khi họ đặt chân đến đó vào thế kỷ 15. Tại đó Trung quốc, đơn vị lãnh thổ lớn nhất tự xem mình là trung tâm thế giới thay trời ban bố trật tự để trị dân – nhân dân toàn thế giới. Bước vào thế kỷ 21, Trung quốc vươn lên như một quốc gia hùng mạnh và không ngừng trăn trở dung hòa cái khung Westphalia với ý niệm vai trò chủ quản của mình dưới bầu trời thế giới.
Kissinger nhấn mạnh rằng tuy Hoa Kỳ và Trung quốc quan niệm khác nhau về dân chủ và nhân quyền, nhưng trong cuộc chạy đua trước mắt cả hai nước đều thấy tránh đụng độ nhau là cần thiết. Trong cuốn “World Order” Kissinger cho rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung quốc ít nguy hiểm hơn là quan hệ giữa Trung quốc với các nước trong vùng. Đông Á là “vùng nóng” có thể bật lửa bất cứ lúc nào.
** Ông Kissinger nêu ra hai luồng tư tưởng hình thành chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Thứ nhất là “tính thực tế” (pragmatic realism) của tổng thống Theodore Roosevelt (tổng thống thứ 26, hai nhiệm kỳ 1901-1908) và thứ hai là “tính phóng khoáng lý tưởng” (liberal idealism) của tổng thống Woodrow Wilson (tổng thống thứ 28, hai nhiệm kỳ 1912- 1920).
Bàn về cung cách chấm dứt hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq, Kissinger bóng bẩy đồng ý với những ai chê tổng thống Obama không lèo lái vững. Nhắc đến những cuộc chiến tranh Hoa Kỳ dính vào rồi bỏ dở nữa chừng tiến sĩ Kissinger không che dấu sự nghi ngờ của ông đối với các nhà lãnh đạo (trong đó có tổng thống Obama) chọn hành động phóng khoáng lý tưởng “kiểu Wilson” cuối cùng đưa đến những thất bại về chính sách ngoại giao.
Kissinger viết, “người chỉ trích cho rằng các thất bại đó do sự thiếu khả năng trí tuệ của nhà lãnh đạo, nhưng với các sử gia thì đó là vì người lãnh đạo không giải quyết được mâu thuẫn giữa quân sự và ngoại giao, giữa lý tưởng và thực tế, giữa sức mạnh tổng hợp và tính hợp lý của hành động”
Tuy nhiên Kissinger không đứng hẵn một bên, mặc dù ông thiên về tính thực tế. Ông viết: “Hoa Kỳ không còn là Hoa Kỳ nếu từ bỏ các quan niệm lý tưởng của mình”. Theo ông Hoa Kỳ không thể thiếu Âu châu, một đồng minh then chốt. Nếu hợp tác nhau Hoa Kỳ và Âu châu sẽ có ảnh hưởng lớn đối với các vấn đề trên thế giới và có thể gíúp nhau tránh những quyết định chiến lược sai lầm.
Ông Kissinger cảnh giác các nước dân chủ đừng tự cho mình luôn luôn đúng. Ông nghi ngờ một số nguyên tắc “phóng khoáng quốc tế (liberal internationalism) thời thượng, thí dụ nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” (reaponsibility to protect), nghĩa là nếu một nhà cai trị độc ác với dân mình thì thế giới có quyền can thiệp. Theo Wolfgang Ischinger sự nghi ngờ này của Kissinger là quá đáng vì nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” có thể giúp bảo vệ trật tự thế giới hơn là tạo bất ổn.
Dẫn chứng mùa Xuân A Rập năm 2011 đưa đến sự sụp đổ hằng loạt các nước độc tài ở Bắc Phi châu và Trung đông (những chế độ độc tài do các nước Tây phương tạo ra với hy vọng tạo ổn định) ông Kissinger kết luận rằng sự độc tài không thể duy trì ổn định lâu dài được. Phải cần có dân chủ. Tuy nhiên ván bài Bắc Phi châu không phải dễ. Câu hỏi cho những thập niên tới là “bao nhiêu dân chủ là liều lượng vừa đủ?”
** Cuốn sách của Kissinger xoay quanh chủ đề “quốc gia” (nation-state) là cấu trúc an toàn của thế giới. Ông không cho các định chế quốc tế hay các động lực không có tính quốc gia (nonstate actors) là quan trọng. Ông cho rằng thế giới ổn định trong suốt 100 năm cho đến khi xẩy ra thế giới chiến tranh lần thứ nhất (1914) là nhờ hội nghị Vienna (1814) đặt ra nguyên tắc “cân bằng thế lực giữa các quốc gia có chủ quyền”. Năm 1914, các nước Âu châu phá vỡ sự đồng thuận của Hội nghi Vienna đã đưa đến chiến tranh. Và Kissinger lập luận rằng tình hình thế giới hôm nay không khác gì năm 1914 . Nếu các quốc gia đi ra ngoài cái khung tôn trọng chủ quyền quốc gia thì thế giới khó tránh được chiến tranh.
Dưới góc nhìn đó Kissinger không mấy phấn khởi về sự hình thành “Cộng đồng Âu châu”, một mẫu “cộng đồng” nhiều nơi trên thế giới đang mô phỏng theo có thể đưa đến sự phá bỏ ranh giới giữa các quốc gia. Ông cho rằng Âu châu là một vùng đất đặc biệt, nơi khai sinh chủ thuyết Westphalia có thể dọ dẫm thí nghiệm mô thức tổ chức mới, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu áp dụng tại các vùng đất khác trên thế giới. Ông nhấn mạnh, cái khung Westphalia vẫn còn là căn bản của trật tự thế giới hôm nay.
Ngoài việc xác định chính sách của các nước lớn là chính, cuốn sách “World Order” của tiến sĩ Kissinger không quên các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến trật tự thế giới như (1) kinh tế toàn cầu, (2) sự thay đổi của thời tiết do độ nóng của khí quyển và (3) sự tiến bộ của kỹ thuật. Toàn cầu hóa làm cho các quốc gia lệ thuộc vào nhau, dựa vào nhau đưa đến những tiến bộ kinh tế và cơm áo, nhưng vấn nạn là toàn cầu hóa cũng làm cho sự cách biệt giàu nghèo càng ngày càng sâu đậm. Toàn cầu hóa giúp các thế lực trên thế giới dùng áp lực kinh tế để ép các nước khác thuần phục thay vì dùng vũ lực. Vũ khí kinh tế hiện nay là vũ khí duy nhất Tây phương dùng áp lực Iran từ bỏ chương trình sản xuất vũ khí nguyên tử và áp lực tổng thống Vladimir Putin thay đổi chính sách xâm lấn Ukraine .
Thời tiết, nói chung là bão táp, lụt lội, động đất cũng có thể làm thay đổi trật tự thế giới. Hiện nay các nhà khoa học và một số chính trị gia đang tìm cách kiểm soát sự thay đổi của thời tiết ảnh hưởng đến hàng tỉ người trên thế giới do độ nóng của bầu không khí. Có thể đã chậm, nhưng chậm còn hơn không.
Trước một đại họa về thời tiết, những quốc gia yếu kém có thể không đủ khả năng duy trì ổn định quốc gia đưa đến xáo trộn, nhưng trong cơn mất mát chung, thế giới sẽ đứng bên nhau với sáng kiến mới như đã đứng bên nhau sau hoang tàn do thế giới chiến tranh lần thứ hai mang lại. Liên hiệp quốc và các cơ chế tài chánh do hội nghị Bretton Woods (3) thành lập như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank) hình thành trên đổ nát của thế chiến 2 đã góp phần ổn định thế giới từ năm 1944 đến nay.
Về ảnh hưởng của kỹ thuật, Kissinger không thoải mái, nhất là đối với kỹ thuật tin học “internet” mà ông nghĩ nó làm cho con người sống hời hợt bên cạnh sự phức tạp của thế giới. Kissinger viết : “một cái bấm con chuột giúp bạn biết một chi tiết về sử hay địa bạn đang cần, nhưng điều đó không làm cho bạn thông thái hơn.” Đặt hy vọng vào thế giới ảo (cyberspace) để xây dựng và giải quyết các vấn đề thật của thế giới – theo Kissinger – là một ảo tưởng.
Nhưng nhiều giới, nhất là giới trẻ không đồng ý với Kissinger. Kỹ thuật (vận chuyển, thông tin …) rõ ràng đã giúp thay đổi cung cách lãnh đạo và kỹ thuật ngoại giao. Các nhà ngoại giao phải sẵn sàng trước ống kính truyền hình, phải có tài thương thuyết, vừa phải có khả năng truyền đạt. Và kỹ thuật thông tin đã thay đổi cách ứng xử của các nước lớn trong lĩnh vực quốc phòng. Phòng chống sự xâm nhập điện toán cũng như khả năng xâm nhập hệ thống điện toán của địch cũng quan trọng không kém trong việc bảo vệ và chế tạo vũ khí tấn công.
Qua cuốn “World Order” độc giả thoáng thấy hình như Kissinger ao ước một hội nghị Vienna của thế kỷ 21. Ông nhìn nhận nền chính trị thế giới đang bị ảnh hưởng bởi các ý niệm liên quốc gia (transnational), của sự tiến bộ tin học, của vũ khí giết người tập thể, của nạn khủng bố, và không thể ép vào cái khung Westphalia dựa trên nguyên tắc “chủ quyền” quốc gia, nhưng theo ông quan hệ giữa các siêu cường vẫn là yếu tố then chốt cho sự ổn định của thế giới. Vấn đề là: Ai sẽ là siêu cường? Theo Kissinger, không cần phải có một trận “Chiến tranh 30 năm” để tạo điều kiện cho một tân Westphalia ra đời, và sau đó một Hội nghị Vienna chia lại thế giới. Kissinger tin sẽ có một biến chuyển trong hòa bình.
Đó là món quà quý hiếm Kissinger tặng cho những ai không muốn thấy một cuộc so gươm trong thế kỷ 21./.
Trần Bình Nam (thuật)
April 13, 2015
© Trần Bình Nam
© Đàn Chim Việt ————————————————-
Ghi chú:
(1) Jihadist: Người Hồi giáo quá khích chống ảnh hưởng của Tây phương và bất cứ chính phủ Hồi giáo nào không theo luật lệ của đạo Hồi. (2) Thirty-years War : cuộc chiến tranh khốc liệt nhất tại Âu châu từ năm 1618 đến năm1648 giữa các nước theo đạo Tin lành và Thiên chúa giáo La mã, dần dần kéo tất cả các nước lớn vào cuộc. Cuộc chiến tranh làm cho các nước Âu châu kiệt quệ, dân số Đức, Ý và Hòa Lan giảm sút và kết thúc bằng hội nghị Westphalia triệu tập tại Westfalen, Đức quốc đặt căn bản trên “chủ quyền” và “quyền chủ quyền” quốc gia. Khi ảnh hưởng của Âu châu lan ra trên thế giới qua phong trào thiết lập thuộc địa, quan niệm chủ quyền quốc gia trở thành luật quốc tế giúp ổn định hòa bình thế giới. (3) Bretton Woods (bang New Hampshire, Hoa Kỳ). Năm 1944 Liên hiệp quốc họp ký các chính sách tài chánh quốc tế ấn định sự trao đổi tiền tệ quốc tế và khai sinh Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank).
From Đàn Chim Việt - TG Trần Bình Nam
|
|
|
Post by BTN on May 15, 2015 15:21:48 GMT -6
Đức Giáo hoàng: Hãy mang chính trị vào các giáo xứ Trong một lần trả lời về việc dấn thân của người tu sĩ trong giáo hội, Đức Giáo hoàng Phan Xi Cô nói rằng “Nếu Chúa gọi anh chị em trên con đường này thì xin anh chị em lên đường, hãy làm chính trị dù con đường này có thể làm anh chị em đau khổ”.
Giáo hội Công giáo Việt Nam đã đem giáo huấn của Đức Giáo Hoàng vào đời sống như thế nào và liệu câu hỏi người tu sĩ không nên làm chính trị có còn đứng vững hay không? Mặc Lâm phỏng vấn linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn.
Mặc Lâm: Thưa Linh mục, xin ông cho biết giáo huấn của Đức Giáo Hoàng về việc dấn thân trong đời sống chính trị có được áp dụng vào mục vụ của giáo hội Công giáo Việt Nam hay không và các tu sĩ thực hiện giáo huấn này cụ thể như thế nào?
LM Lê Ngọc Thanh: Về mặt giáo huấn chung của Giáo hội tôi xin được nói cái giáo huấn gần nhất của giáo hội đó là thông điệp “Niềm vui tin mừng” của Đức Giáo hoàng Phan xi cô vừa ban hành cách đây hơn một năm. Trong chương IV ngài nói rất rõ những việc phải dấn thân trong xã hội. Ngài chỉ ra hàng loại những vấn đề rất cụ thể và ngài bảo rằng tôi muốn một giáo hội lem luốc trên đường phố với người nghèo hơn là ẩn mình trong sự an toàn giả tạo. Và ngài bảo rằng cần phải cơ cấu lại, không phải bài giảng đâu, mà cần thiết thì phải cơ cấu lại giáo xứ để làm sao đáp ứng được nhu cầu đó và ngài nhấn mạnh rằng việc phục vụ cộng đồng, xã hội trong tư cách là một chính trị gia của giáo dân nó là một việc bác ái cao cả hơn cả bởi vì nếu việc bác ái bình thường chỉ giúp được một hai người, còn một vị chính trị gia làm việc nghiêm túc, công minh thì sẽ giúp cả một cộng đồng xã hội hàng ngày cứu giúp giáo dân.
Mặc Lâm: Có phải vì thế mà nhiều bài giảng thuộc DCCT gần đây đã không ngại nêu bật những khiếm khuyết của xã hội lẫn chính quyền và trong một chừng mực nào đó đã gây cảm hứng mới cho giáo dân. Xin linh mục cho biết những bài giảng như thế có được sự đồng thuận từ giáo hội hay không?
LM Lê Ngọc Thanh: Trước tiên thì tôi phải khẳng định rằng là bài giảng nơi tòa giảng trong nhà thờ luôn xuất phát từ lời Chúa chứ không phải tùy ý do sở thích của một linh mục hay của một nhóm một cộng đoàn riêng lẻ nào đó. Cái đó không thuộc phạm vi tự quyết của cá nhân một linh mục hay của một cộng đoàn như Dòng Chúa cứu thế mà đây là sứ điệp của Chúa trong hội thánh được công bố hàng tuần. Chúng tôi công bố lời Chúa vì chính lời Chúa xuất phát từ trong một cộng đồng xã hội cụ thể và quay lại áp dụng cho một cộng đồng cụ thể với những vấn đề mà chúng ta không thể im lặng, với những vấn đề chúng ta không thể cho qua.
Những vấn đề mà anh em DCCT thật ra không nằm ngoài lề giáo hội mà triển khai những vấn đề của giáo hội mà có thể nhiều cha xứ khác, ở nhiều nơi khác, vì lý do mục vụ cụ thể hoặc là vì sự đơn độc khi ở một mình có thể dễ dàng bị tấn công, bị trả thù nên các ngài khôn khéo hơn, cẩn thận hơn trong cách nói công khai trên tòa giảng. Nhưng có thể nói một điều chắc chắn như thế này là ở lúc gặp gỡ và chia sẻ với giáo dân tất cả các linh mục đều nói rõ về bản chất dấn thân cho xã hội của Giáo hội Công giáo mà không ngoại trừ DCCT.
Mặc Lâm: Phản ứng của giáo dân đối với giáo huấn mới của Đức Thánh Cha có tích cực lắm hay không trong bối cảnh o ép hiện nay tại Việt Nam và sau những bài giảng sống động trong nhà thờ giáo dân có phản ứng như thế nào?
LM Lê Ngọc Thanh: Tôi lấy kinh nghiệm ở Thái Hà ở Hà Nội và Đền Đức mẹ hằng cứu giúp ở Sài Gòn để chúng ta thấy.
Ban đầu thì giáo dân hơi sợ hãi nhưng sau khi nghe giảng xong thì giáo dân nói với chúng tôi rằng chúng con chỉ sợ rằng là đang thánh lễ hay sau thánh lễ họ sẽ vô bắt các cha. - LM Lê Ngọc Thanh
Ban đầu thì giáo dân hơi sợ hãi nhưng sau khi nghe giảng xong thì giáo dân nói với chúng tôi rằng chúng con chỉ sợ rằng là đang thánh lễ hay sau thánh lễ họ sẽ vô bắt các cha. Ban đầu là như vậy nhưng dần dần họ thấy và nói với chúng tôi rằng đây là điều mà họ chỉ nghe được ở đây. Họ là những người thuộc nhiều giáo xứ khác cứ canh giờ lễ đó mà đến để được hiệp thông, cầu nguyện để được nghe giáo huấn.
Tôi thấy rằng ít nhất là vào buổi lễ Công Lý Hòa bình vào 8 giờ tối Chúa nhật cuối tháng, một thánh lễ quy tụ trên 3.000 người ở tại Sài Gòn và Hà Nội cũng vậy.
Có đến 80% người tham dự là những người biết rõ và họ chủ động tìm đến để được giáo huấn theo cách như vậy chứ không phải chỉ đi lễ như một giáo dân bình thường vào ngày Chúa Nhật.
Mặc Lâm: Xin linh mục cho biết những hoạt động dấn thân, những bài giảng thiết thực với đời sống rõ ràng là đụng đến vấn đề mà nhà nước cho là nhạy cảm. Chính quyền đã có những hành động nào để ngăn chặn hay cản trở hay không?
LM Lê Ngọc Thanh: Trước đây khi chúng tôi bắt đầu những chia sẻ như vậy với giáo dân thì họ dùng những tờ truyền đơn dán vào các cột điện, gốc cây trong khu vực nhà thờ. Họ rải trong sân nhà thờ, họ rải trong khu xóm, trong quán ăn để nói xấu và lên án các cha. Họ không dừng lại ở việc lên án về nội dung bài giảng, họ bắt đầu vu khống kể cả việc dựng đứng lên họ nói đó là đời sống vô đạo đức của các cha như vậy.
Riêng đối với nhà cầm quyền thì có một lần họ đã chất vấn về tính hợp pháp của website chúng tôi, còn về tòa giảng thì họ chỉ nói với cá nhân linh mục này, với cá nhân cha kia để gây sự chia rẻ trong nội bộ của anh em chúng tôi và cũng có dùng nhóm giáo dân này nhóm giáo dân kia chống lại nhau. Nhưng có thể nói rằng là những tác động giảm dần và đến bây giờ không còn tác động gì nữa cả.
Mặc Lâm: Xin cám ơn linh mục Lê Ngọc Thanh.
From Bacaytruc
|
|
|
Post by BTN on May 15, 2015 15:25:52 GMT -6
Politics is the realm in which we attempt to realize some of our highest aspirations: our desire for political freedom, our longing for justice, our hope for peace and security. At the same time, politics is laced with individuals and groups seeking their selfish interests at the expense of others.
|
|
|
Post by BTN on May 18, 2015 16:15:46 GMT -6
|
|
|
Post by BTN on May 18, 2015 16:29:19 GMT -6
From: Báo Tổ Quốc
Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh “Mười Phần Chết Bảy Còn Ba Chết Hai Còn Một Mới Ra Thái Bình” Tháng Năm 14, 2015 nhóm Văn Tuyển 2 phản hồi
Cụ trạng trình Nguyễn Bĩnh Khiêm có câu sấm truyền bất hũ ” Mười Phần Chết Bảy Còn Ba Chết Hai Còn Một Mới Ra Thái Bình “.
Anh Tôn Thất Lộc, một người bạn nằm bên tôi trong trại tù cọng sản, gỉải thích nghĩa câu sấm truyền này như sau ” Đây là một câu sấm nói về chiến tranh chết chóc. Chữ Thái Bình ở đây có 2 nghĩa là Thái Bình Dương và Hòa Bình, như thế sẽ có một trận đánh lớn ở Thái Bình Dương mới có Hòa Bình”.
Tôi vừa nhận được tin một người bạn cho biết anh Tôn Thất Lộc đã qua đời ở đâu đó tại California. Trước năm 1975 anh là thiếu tá CSQG đang chuẩn bị đi Pháp để nhận gia tài 50 chục triệu đô từ một ông chú. Quân cọng sản vào chiếm MNVN đã đưa anh đến nằm bên tôi và cũng đói như tôi và bao anh em khác vì tiền chưa được lãnh được không biết trước khi qua đời anh đã lãnh được số tiền đó chưa vì tôi đã mất liên lạc với anh từ ngày ra trại tù cho đến nay.
Khi anh giải thích câu sấm truyền vào năm 1979 thì tôi để ngoài tai vì chẳng có chút gì Lô gíc cả nhưng với tình hình hiện nay và nhất là sau khi đọc bản tin dưới đây thì một trận chiến ngoài Thái Bình Dương có thể xảy ra làm tôi nhớ đến lời giải thích câu sấm truyền của anh Tôn Thất Lộc.
Bản tin đó như sau :
Mỹ đưa quân đội và vũ khí hạng nặng vào 8 căn cứ tại Biển Đông
Nguồn tin từ RFI tiết lộ, Hoa Kỳ chính thức yêu cầu Phillipines về việc ĐƯA QUÂN ĐỘI VÀ VŨ KHÍ HẠNG NẶNG CỦA MỸ VÀO 8 CĂN CỨ QUÂN SỰ ở Philippines.
Danh sách các căn cứ đã được xác định:
– 4 căn cứ trên đảo chính Luzon.
– 2 căn cứ khác trên đảo Cebu.
– 2 căn cứ trên đảo Palawan ở miền Tây Philippines, nằm gần quần đảo Trường Sa đang tranh chấp tại Biển Đông.
Theo hãng tin Reuters, các vũ khí hạng nạng bao gồm:
– Tàu khu trục nguyên tử tàng hình hiện đại.
– Máy bay tàng hình ném bom nguyên tử .
– Máy bay chiến đấu tàng hình siêu tối tân .
Trong cùng diễn biến “nóng” này, tờ Nguyệt San “Lợi Ích Quốc Gia” của Mỹ ngày 23/4 / 2015 đưa tin rằng :
KHÔNG QUÂN MỸ TUYÊN BỐ TẬP TRUNG TẤT CẢ MÁY BAY NÉM BOM HẠNG NẶNG VÀO BỘ TƯ LỆNH TẤN CÔNG TOÀN CẦU để đối phó với Trung Quốc
Một trong những lý do khiến Mỹ ào ạt đổ quân vào Đông Nam Á vì Trung Quốc sẽ đưa các máy bay đánh bom hạng nặng ra Hoàng Sa và Trường Sa tại các địa điểm:
– Bãi đá Chữ Thập (Trường Sa): Trung Quốc đã hoàn thành đường băng dài hơn 1.300m. Hiện họ đang tiếp tục xây dựng thêm để kéo dài đường băng đạt mức 3.110m.
– Đảo Phú Lâm (Hoàng Sa): Nó đang mở rộng đường băng dài 2.300m hiện tại để thành đường băng dài 3.000m.
Không ngồi chờ Trung Quốc triển khai hỏa lực, Mỹ đã chính thức bao vây Trung Quốc bằng cách tung quân đội và vũ khí hạng nặng trước vào những cứ điểm quan trọng ở biển Đông trước khi trận hải chiến có thể xảy ra….
Liệu chiến tranh thế giới đã khởi đầu , bắt đầu để giải quyết mọi vấn đề trong bối cảnh các bên , các phe không thể nào “thương lượng kiểu hòa bình & nhân nhượng” như hiện nay ??
(Nguồn: Reuters & RFI)
FB Trương Văn Khoa
Mỹ là một quốc gia siêu cường số 1 đã giữ vai trò lãnh đạo toàn thế giới suốt thế kỷ qua. Trong quá khứ những quốc gia như Anh, Đức, Nhật, Liên Xô, Liên Hiệp Châu Âu mon men giành quyền lãnh đạo thế giới đều bị Mỷ tìm cách hạ bệ.
Nay Trung Quốc đang tìm mọi mánh khoé để giành quyền lãnh đạo thế giới thì sẽ không thể đi ra ngoài tầm ngắm của Mỹ. Một kế hoạch hạ bệ Trung Quốc đã được đặt lên bàn mổ của các Think Tank ở Mỹ. Kế hoạch đó đã bị xì ra ngoài, chia Trung Quốc thành 5 nước nhỏ.
Lẽ dĩ nhiên kế hoạch là những thứ được nằm trên giấy còn thực hiện được hay không là một chuyện khác. Bài viết này chỉ bàn về trận đánh ở Thái Bình Dương (Biển Đông ) có hay không mà thôi.
Tại sao Chu Vĩnh Khang bị truy tố ? Vì Chu Vĩnh Khang có lần chê Tập Cập Bình không có đủ uy dũng để cai trị nước Trung Quốc to lớn. Chu Vĩnh Khang đã chạm phải lòng tự ái của Tập Cập Bình nên ông ta phải làm dữ để chứng tỏ mình là một là một thiên tài trong cai trị.
Tôi không biết tên vị quân sư quạt mo nào đã hiến cho Tãp Cập Bình kế thổi phồng lòng yêu nước trong toàn dân bằng cách mở rộng bở cõi ra Biển Hoa Đông và Biển Đông. Biển Hoa Đông thì không thể thành công vì đụng phải anh Nhật Bản quá hung dữ. Biển Đông thì chắc chắn nắm trong tay vì gặp thằng đàn em Cọng Sản Việt Nam hèn hạ chưa nạt đã cúi đầu dâng hiến.
Miếng ăn đang nằm trước miệng nên Tập Cập Bình nào chịu buông ra. Nếu mai đây Trung Quốc tuyên bố lập Vùng Nhận Dạng Phòng Không ( ADIZ) để tiến tới độc chiếm Biển Đông thì Tập Cập Bình mắc phải một sai lầm nghiêm trọng : Làm cản trở lưu thông trong một vùng biển tập nập nhất trên thế giới.
Trong tương lai rất gần một vụ chìm tàu có thể được dàn dựng để có cớ Mỹ ra tay. Bom tấn của cô Dương Nguyệt Ánh dùng để trị Iran sẽ dược kéo ra để khỏi kho để cho mấy cái đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông chìm về lại biển.
Nếu Trung Quốc chống lại thì Mỹ sẽ đánh luôn để chia Trung Quốc làm thành 5 nước nhỏ. Trận đánh ngoài Thái Bình Dương mà trạng trình Nguyễn Bĩnh Khiêm tiên tri vào mấy trăm năm trước cũng được các thầy bàn ở Phương Tây hiện nay cho rằng Biển Đông là trận đánh mở màn cho thế chiến thứ III.
Anh Tôn Thất Lộc ơi ! Sao anh không sống thêm vài năm nửa để xem trận đánh ngoài Thái Bình Dương. Tôi không hiểu anh xuất thân từ lò nào mà sao anh giỏi như thế.
Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
TB: Nếu TC thành 5 mảnh thì mấy ông VC sẽ chạy theo mảnh nào đây? VC chẳng còn chỗ dung thân.
|
|
|
Post by Người chuyển bài on May 19, 2015 13:06:30 GMT -6
Tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính cần phải ngồi lại với nhau Đồng Viết Tâm Ngồi lại với nhau. Quả thật, đúng như thế, vì đứng trước những tình huống vô cùng khẩn thiết như hiện nay, thì tất cả chúng ta, những người Việt Quốc Gia chống cộng, cần phải bỏ qua những dị biệt, bất đồng, để ngồi lại với nhau, để cùng nhau mưu tìm một phương pháp hữu hiệu, cùng sát cánh, kề vai để đấu tranh và giành lại quyền tự quyết cho dân tộc. Ba mươi bảy năm qua rồi, đã quá đủ, để chúng ta nhìn nhận rằng, những cách đấu tranh rời rạc, những sự chia rẽ do những dị biệt, bất đồng, mà trong đó, đã do đảng cộng sản Hà Nội tạo ra. Có lẽ nào chúng ta không biết, ngay từ những ngày tháng đầu tiên, khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đã bị buộc phải rời tay súng, thì đảng cộng sản đã đưa một số tên gián điệp trà trộn với những người di tản - vượt biên - vượt biển và sau này kể cả trà trộn đi theo các chương trình đoàn tụ để đi định cư ở nhiều quốc gia ở khắp các nước Âu-Mỹ, ngay diện tù “cải tạo” nữa. Và trong số này, đã có một thiểu số đã mang tên, họ, số quân của người tù “cải tạo” đã chết... Những kẻ này, hiện đang sống ở khắp năm châu trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Bọn gián điệp, tay sai này, chúng thường tung hỏa mù, với những nguồn tin thất thiệt, gây rối, chúng đã và đang tận dụng hết cả “tam thập lục kế”, mà mục đích chính của chúng, là không cho những người Việt Quốc Gia chống cộng thực sự ngồi lại với nhau, để đảng cộng sản Hà Nội cứ tiếp tục thống trị đất nước lâu dài, mặc cho đồng bào ta tại quốc nội đã và đang phải chịu những khốn khổ trăm bề. Chúng ta cần phải hiểu rõ những mưu đồ đen tối của bọn gián điệp cộng sản, đang trà trộn trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản của chúng ta, bọn này chúng luôn luôn tìm hết cách này, sang cách khác để lũng đoạn tinh thần chống cộng, để chia rẽ chúng ta, không để cho chúng ta hợp quần, để có đủ sức mạnh đối đầu với cả đảng cộng sản vô cùng gian manh, xảo quyệt. Tuy nhiên, bọn gián điệp này, không đông đảo lắm, chúng thường phải tìm cách để núp dưới bóng của các tổ chức của người Quốc Gia, và cũng dễ nhận ra, dù bọn chúng đã và đang ở bất cứ những nơi đâu. Chúng ta chỉ cần nghe, thấy, biết qua những lời nói và hành vi bất nhất của chúng, dù có tinh vi tới đâu, nhưng nếu chịu khó suy nghĩ, thì tất sẽ hiểu ra mọi thứ... để rồi chúng ta khỏi phải rơi vào những chiếc bẫy ngầm của chúng đã âm thầm giăng ra tại hải ngoại. Nhưng không vì thế, mà chúng ta phải sợ, mà không dám ngồi lại với nhau; bởi vì chúng ta có Chính Nghĩa. Chính Nghĩa như ánh mặt trời luôn luôn ngời sáng và ấm áp; vì thế, mọi sinh vật đều không thể sống trong đêm đen, lạnh lẽo, mà cần phải có ánh mặt trời. Xin tất cả, những người Việt Nam yêu nước chân chính hãy bình tâm để suy nghĩ ra những điều này, dù rằng trước đây, quý vị có những suy nghĩ khác biệt, nhưng bây giờ, đứng trước những biến chuyển đáng mừng đã và đang xảy ra tại quốc nội, thì xin quý vị hãy vì một nước Việt Nam Tự Do, vì tất cả đồng bào ruột thịt tại quê nhà, mà hãy bỏ qua những bị biệt bất đồng trong quá khứ, để cùng nhau ngồi lại bên nhau với tinh thần Đặt Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết; được như thế, thì chúng ta mới mong khôi phục lại giang san đang nằm trong tay của đảng cộng sản hung tàn dưới sự bảo trợ của bọn giặc Tầu bạo ngược. Như chúng ta đã biết, cả đảng cộng sản Hà Nội, trong bộ máy cầm quyền đang rất lo sợ và hốt hoảng lên tiếng kêu gọi “Đoàn Kết” để chế độ khỏi phải bị sụp đổ, mà một trong những tên ấy, là Tổng bí... thế Nguyễn Phú Trọng đã phải lên tiếng kêu gọi “đảng ta và quân đội nhân dân” phải “quyết tâm bảo vệ đảng”. Người viết bài này, chỉ trích đoạn lại những lời của Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu như sau đây: “Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ cách thức và những yêu cầu trong triển khai thực hiện Nghị quyết, bắt đầu từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Cụ thể... không tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, làm giảm uy tín đội ngũ cán bộ. ... Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động ngăn ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ... Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác... sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, xảo quyệt. “Diễn biến hòa bình” là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là “thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi”. Nhiều chuyên gia và chính khách phương Tây còn gọi đây là phương pháp “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”, “cách mạng hòa bình” và gần đây là “cách mạng nhung”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”... nhung”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố... kiên quyết khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Trong chiến lược này, hoạt động tư tưởng - văn hóa được họ coi là “mũi đột phá”, là “cây cầu dẫn vào trận địa”, là lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc đã tổng kết: “Có những việc 100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi, nhưng chỉ cần 10 sứ giả lại có thể hoàn thành”; “một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước”. Ngày nay “làn sóng điện đang thay thế thanh gươm; cây bút là phương tiện đi vào trái tim khối óc con người”; “một đô-la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5 đô-la chi cho quốc phòng”; “kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo là bốn đòn đột phá khẩu, bốn mũi xung kích để chọc thủng mặt trận tư tưởng chính trị.... ... Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị nói trên tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đọc qua những lời “phát biểu” của Nguyễn Phú Trọng, thì chúng ta phải hiểu rằng, với những biến chuyển ở trong nước, đảng cộng sản đã nhiều lần cứ nói đi, rồi lập lại đến cái gọi là “thế lực thù địch” là “hết sức độc hại, nguy hiểm” lên đến mức báo động hàng đầu; để kêu gọi toàn đảng, toàn quân (cộng sản), phải thẳng tay đàn áp, nếu có những cuộc nổi dậy đòi tự do, dân chủ, đòi lại tất cả những đất đai, tài sản của đồng bào, kể cả đòi lại sự công bằng cho những người thân của họ đã bị đảng cộng sản tước đoạt. Kế đến, Nguyễn Phú Trọng đã lo sợ đối với sức mạnh của “cơ quan truyền thông”; mà đặc biệt, là những bài viết, những bài phát thanh, đã và đang được truyền tải trên các hệ thống toàn cầu như sau: “100 máy bay chiến đấu không thực hiện nổi, nhưng chỉ cần 10 sứ giả lại có thể hoàn thành”; “một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước”. Ngày nay “làn sóng điện đang thay thế thanh gươm; cây bút là phương tiện đi vào trái tim khối óc con người”. Quả đúng, vô cùng chính xác, khi nói đến sức mạnh của truyền thông, mà ngày xưa người ta thường nói đến “sức mạnh tuyên truyền”. Là con dân nước Việt, thì ít có ai, mà không biết đến Hịch Tướng Sĩ của Đức thánh Trần Hưng Đạo, với những lời bi hùng, thống thiết, mà khi các tướng sĩ nghe qua đã đều rơi lệ, và đã tự rạch da của mình, để khắc lên lời thế Sát Thát. Trong lịch sử cận đại, khi Tưởng Giới Thạch đem quân vây đánh và thắng lúc đầu trong trận Thụy Kim; nhưng sau đó, Mao Trạch Đông dù không có chính nghĩa, nhưng đã thành công và đánh bại họ Tưởng cũng bởi do mặt trận tuyên truyền. Năm 1923, Hitler thất bại vào tù, ông ta gặp Goebels thì mới hiểu được sức mạnh tuyên truyền. Sau đó, khi ra tù, có Goering đem về cho Hitler sự ủng hộ của giới quý tộc Đức. Nhờ vậy, Hitler mới cướp được đảng Quốc-Xã và quyền lực. Đại đế Napoléon đã từng nói: "Một ngòi bút có thể phá tan cả vạn quân" Mặt khác, chúng ta cũng đừng quên những đồng bào thuộc nhiều tầng lớp từ hàng trí thức, cho đến những bần dân đã và đang bị đảng cộng sản Hà Nội khủng bố, áp bức, cướp đoạt mọi thứ quyền căn bản của con người; vì thế, chính những người cùng đường, khốn khổ này, mới là những người dám đứng lên làm nên lịch sử. Chúng ta cần phải biết, ngày xưa, tại Pháp, những người dân bị áp bức, bần cùng đã xông vào cướp ngục Bastille tại Kinh Đô Paris của nước Pháp, mà sau đó ngục Bastille đã trở thành l'Opéra de la Bastille Paris, một trung tâm giải trí to lớn như hiện nay. Ngày nay, chúng ta, những người Việt Nam yêu nước chân chính, với đức tính nhân ái, vị tha, lúc nào cũng muốn vươn cao, thăng tiến theo đà tiến hóa của nhân loại, thì không bao giờ thi hành những chính sách như Mao Trạch Đông, như Hitler. Nhưng, chúng ta cần phải ghi nhớ đến những bài học lịch sử ấy, bài học của sức mạnh tuyên truyền như Đại đế những lời nói của đại đế Napoléon, để cất giữ vào hành trang trên con đường cứu nước! Trở lại với những lời của Nguyễn Phú Trọng. Hiện nay, đảng cộng sản Hà Nội đã và đang kêu gọi “đoàn kết” với nhau để sẵn sàng thẳng tay đàn áp bất cứ một cuộc nổi dậy nào của đồng bào ta ở trong nước. Như thế, thì tại sao, chúng ta, tất cả mọi người Việt Nam không cộng sản, có lòng nhiệt thành yêu nước chân chính ở trong cũng như ngoài nước, lại không chịu bỏ qua những dị biệt, bất đồng để cùng ngồi lại bên nhau, để nối kết lại thành một khối, hầu có đủ sức mạnh để cứu lấy giang san, và cứu lấy đồng bào ruột thịt của chúng ta đang bị đảng cộng sản áp bức tại quê nhà ?! Nhưng có một điều, mà Nguyễn Phú Trọng không thể lường trước được. Đó là, không phải tất cả những đảng viên cộng sản và “quân đội nhân dân”, họ đều sẽ phải tuân theo mệnh lệnh của “đảng”. Bởi vì, trong con số triệu người ấy, đã có rất nhiều người đã vì lẽ này hay lẽ khác, nên phải "vào đảng”, lại cũng có đa số thanh niên đã bị bắt buộc phải di làm “quân đội nhân dân”, chứ không phải là do hoàn toàn tự nguyện. Và họ đều có những thân nhân, ruột thịt trong số những người dân đã và đang bị áp bức. Chính vì thế, nếu một ngày, có những cuộc nổi dậy của đồng bào để đòi lại những quyền lợi chính đáng của họ đã bị tước đoạt, thì thử hỏi, những người này, họ có dám tàn nhẫn, vô cảm, và vô luân mà nỡ tâm xuống tay để giết hại những người thân, ruột thịt của mình hay không Vậy, một lần nữa, xin tất cả mọi người, hãy quên đi “cái tôi” của mỗi người, chúng ta không vì quyền lợi của cá nhân hoặc của riêng một tổ chức, hay phe nhóm của mình, mà hãy cùng nhau ngồi lại dưới một mái nhà Việt Nam, mỗi người hãy tự nguyện gánh vác lấy mỗi việc theo khả năng của mình. Đặc biệt, là những người đấu tranh chống cộng thực sự, đã và đang cầm bút, xin quý vị hãy viết những bài "có thể phá tan cả vạn quân", và quý vị đang giữ những những cơ quan truyền thông chống cộng, nhất là hệ thống toàn cầu, đảng cộng sản rất lo sợ hệ thống Internet, vì hệ thống này sẽ vượt không gian để xuyên thủng những bức tường lửa, tường sắt do đảng cộng sản Hà Nội thiết lập để bưng bít, không cho đồng bào tại quốc nội được biết đến những tin tức, những bài viết có tính thuyết phục, có giá trị đích thực, cũng như những biến cố đã và đang xảy ra trên khắp thế giới. Xin quý vị đang nắm giữ những cơ quan truyền thông và các diễn đàn chống cộng, quý vị đang đóng những vai trò rất quan trọng và cấp thiết trong công cuộc cứu dân, và cứu nước hiện nay. Hãy ngồi lại bên nhau. Ngồi lại bên nhau, cùng đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc lên hàng Tối Thượng, sát cánh bên nhau trên con đường đấu tranh, để đi đến mục đích chung, là giành lại quyền tự quyết của dân tộc, cho toàn dân Việt sẽ được hát khúc Hoan Ca để đón mừng một “Mùa Xuân Ả Rập”. 01/03/2012 Hiệu đính Mùa Quốc Hận: Tháng Tư 2015 Đồng Viết Tâm
|
|
|
Post by From RFI - Tu Anh on May 21, 2015 10:39:12 GMT -6
Trung Quốc lọt vào trận đồ áp bức toàn diện
Thời kỳ cởi mở tương đối sau khi Tập Cận Bình lên nắm quyền đã chấm dứt. Tự do phát biểu và nhân quyền bị chà đạp không nương tay. Hàng loạt văn nhân, trí thức, luật sư, nghệ sĩ, tu sĩ bị tống giam vì can đảm chỉ trích chế độ. Chiến dịch chống tham nhũng lộ nguyên hình là thủ đoạn sát kê dọa hầu, giết gà nhát khỉ, của tân hoàng đế Trung Quốc, theo như giới phân tích độc lập tại Bắc Kinh.
Chủ tịch Trung Quốc -Tập Cận Bình. Ảnh ngày 31/03/2014. Reuters
Chủ tịch Trung Quốc -Tập Cận Bình. Ảnh ngày 31/03/2014. Reuters
Sau các phiên tòa trừng trị vợ chồng cựu lãnh đạo tỉnh Trùng Khánh, ông Bạc Hy Lai bị án tù chung thân còn bà vợ Cốc Khai Khai lãnh bản án « tử hình treo », hàng loạt quan chức cao cấp khác của Trung Quốc như Chu Vĩnh Khang và các đàn em, không kể Bạc Hy Lai, người đã vào tù kẻ nằm chờ lãnh án với tội danh tham nhũng. Chiến dịch đánh tham nhũng cũng không tha hàng tướng lãnh quân đội như Từ Tài Hậu, Cốc Tuấn Sơn, Dương Kim Sơn
Tuy nhiên đàng sau những sự kiện được truyền thông Trung Quốc loan tin rộng rãi để đánh bóng chính sách « diệt hổ » của Tập Cận Bình là cả một sách lược tinh vi nhầm củng cố quyền lực cá nhân của nhân vật mà dư luận gọi là tân hoàng đế Trung Quốc, nắm ghế Chủ tịch đảng Cộng sản vào tháng 11/2012 và lần lượt thu tóm toàn bộ quyền lực trong tay.
Trong bối cảnh giới trẻ Hồng Kông xuống đường phản đối Bắc Kinh nuốt lời hứa dân chủ, tình trạng trấn áp tại Hoa lục còn thô bạo hơn, thông tin bị kiểm duyệt, công dân mạng bị bắt nhốt.
Trong một bài phân tích dài gửi đi từ Bắc Kinh, phóng viên nhật báo Pháp Libération trong số báo thứ hai tuần này khẳng định : “Trung Quốc trở lại thời kỳ im hơi lặng tiếng”.
Trường hợp điển hình là nhà trí thức Hoàng Trạch Vinh (Huang Ze Rong), 81 tuổi, từng bị cầm tù suốt 23 năm từ năm 1957 đến 1980 trong nhà tù cải tạo. Thực ra, công an chính trị quan tâm làm gì đến một cụ ông 81 tuổi. Từ nhiều thập niên qua tên tuổi nhà văn Hoàng Trạch Vinh đã « được » lá chắn bảo vệ chế độ quên lãng.
Nhà văn từng bị quy tội « phản động » sống yên bình trong một căn hộ nhỏ ở vùng ngoại ô buồn thảm của Bắc Kinh. Thỉnh thoảng ông vẫn viết bài, nhắn tin trên mạng internet mà nội dung dành riêng cho những người quan tâm đến thời cuộc. Tuổi đời gần đất xa trời của tác giả là một lá bùa hộ mệnh mà ngay đám mật vụ Trung Quốc của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào cũng phải tôn trọng dù biết đối tượng không ưa chế độ này.
Thế nhưng, từ khi Tập Cận Bình lên ngôi thì tình thế đổi khác. Đầu tiên, con chó Mao giống Tây tạng trung thành của ông bị đánh thuốc độc. Có lẽ để chế diễu chế độ, ông đặt tên cho con chó trung thành giữ nhà là « Mao » như họ của Mao Trạch Đông.
Cả nhà không hiểu kẻ gian nào làm chuyện gian ác này và để làm gì ? Chỉ một ngày sau là họ có câu trả lời. Đêm 15/09, một ngày sau khi con chó canh trộm bị giết, một toán công an đang đêm đập cửa ào vô nhà Hoàng Trạch Vinh. Ông lão 81 tuổi bị đánh thức, bị buộc phải thay quần áo và bắt khẩn cấp. Tất cả trang thiết bị điện tử từ điện thoại, máy điện toán cho đến sách vở, tài liệu viết tay bị tịch thu để gọi là làm tang vật.
Sau đó một thời gian, gia đình mới nhận được lệnh bắt giam trong đó nhà văn Hoàng Trạch Vinh bị quy tội « gây mất trật tự và kích động cãi vã ».
Ông cụ 81 tuổi này thật sự phạm tội gì ? Tiếp xúc với nhà báo Pháp, thân nhân của Hoàng Trạch Vinh dự đoán có lẽ ông bị trả thù vì một bài thơ ngụ ngôn chỉ trích một ủy viên bộ Chính trị thiếu tư cách.
Một luật sư có kinh nghiệm biện hộ cho các nhà tranh đấu dự đoán : nếu ông Hoàng Trạch Vinh bị kết án tù thì ông sẽ bi quy chụp tội danh hình sự chứ không phải là do hoạt động chính trị :
Công an hành xử theo kịch bản quen thuộc. Đầu tiên là bắt đối tượng bị cho là nói xấu chế độ. Rồi sau đó, họ mới tìm cách này cách kia ngụy tạo “chứng cớ” để truy tố, để quy buộc tội hình sự bằng cách truy tìm đời tư trong quá khứ hoặc ép cung bằng bạo lực hay bắt chẹt.
Đó là điều mà chính quyền Trung Quốc gọi là “xét xử theo pháp luật”.
Hàng loạt nhà báo, luật sư, đối lập, tu sĩ, tín đồ tôn giáo, giáo sư đại học, thành viên các tổ chức dân sự và đối thủ chính trị biến thành nạn nhân của chính sách siết chặt kiểm soát xã hội của Tập Cận Bình.
Theo đạo luật mới “chống phát tán tin đồn” và nhân danh chỉ thị cấm “tiết lộ bí mật” trên báo chí, tòa án Trung Quốc có quyền kết án tù bất cứ người nào. Vị luật sư giải thích:
Mục đích của chế độ là khủng bố tinh thần một số đông dân chúng, từng bộ phận một, để cuối cùng, không một ai dám lên tiếng phát biểu gì cả. Để làm cho các tiếng nói phản biện trong xã hội Trung Quốc phải im lặng, phương tiện tinh vi nhất là bộ máy tư pháp vì đây là lớp sơn tạo cho chính sách đàn áp một vỏ bọc “hợp pháp”.
Một luật sư khác, cũng có nhiều kinh nghiệm bảo vệ giới ly khai nhận xét:
Trong thập niên 90 đã có một số cải tiến về một nhà nước thượng tôn pháp luật. Quy định về luật tố tụng dần dần được tôn trọng đôi chút. Tuy nhiên đến năm 2009, tức là một năm sau Thế vận hội Bắc Kinh, thì tình hình tư pháp xấu đi. Cho đến khi Tập Cận Bình lên nắm quyền thì mấy thẩm phán không do dự sử dụng phương pháp du côn du đảng để dâng cấp trên những bản án mà lãnh đạo mong chờ.
Trường hợp cụ thể nhất vừa xảy ra là vụ giáo sư kinh tế Ilham Tohti, người Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương. Ông chỉ trích chính sách đồng hóa thô bạo của Bắc Kinh đang thực hiện tại Tân Cương nhưng bị kết án tù chung thân với tội danh “chủ trương ly khai”.
Để triệt hạ nhà trí thức được sinh viên kính trọng và quốc tế nể phục, an ninh Trung Quốc đã sử dụng một đoạn băng vidéo thu lại một bài giảng của ông tại giảng đường trong đó có đoạn liên quan đến lịch sử : trước đây Tân Cương mang tên Đông Thổ là đất của sắc tộc Duy Ngô Nhĩ chứ không phải của người Hán. Tòa án gọi đây là bằng chứng để bắt giam và buộc tội giáo sư Ilham Tohti.
“Bỏ đói tù nhân hàng chục ngày để ép cung”
Tháng Giêng năm nay, giáo sư Ilham Tohti bị công an đến tận căn hộ trong cư xá đại học Bắc Kinh, nơi ông sống với người vợ và hai đứa con thơ, bắt khẩn cấp giải về tận Tân Cương và nhốt vào một “xà lim” chật hẹp trong một nhà tù ở thủ phủ Urumqi.
Trong nhà giam này, giáo sư Ilham Tohti bị bỏ đói trong nhiều giai đoạn dài có khi hơn 10 ngày. Tay chân của ông bị cùm bằng còng sắt cắt sâu vào da thịt.
Ngày 23/09, trong một phiên tòa dàn dựng theo kiểu Liên Xô cũ, giáo sư người Duy Ngô Nhĩ này bị kết án chung thân với tội danh “ thông đồng với báo chí nước ngoài” bởi vì ông đã trả lời câu hỏi của các phóng viên quốc tế hoạt động tại Bắc Kinh. Bản án nặng nề không tương xứng này có lẽ do “cấp lãnh đạo” chỉ thị.
Bất bình bản án này, một luật sư có tiếng tăm tại Bắc Kinh mà Libération không đưa tên vì lý do an ninh, nhận định: Không phải là tình trạng nhân quyền ở Trung Quốc không cải thiện. Phải nói là nhân quyền càng ngày càng tệ hại. Theo quan điểm lập pháp thì Trung Quốc có một số tiến bộ, chẳng hạn như bỏ các trại tù cải tạo lao động. Nhưng về mặt pháp lý thì hoàn toàn thụt lùi đến mức tôi vô cùng bi quan cho nền tư pháp Trung Quốc.
Nhiều đồng nghiệp của luật sư này đã bị bắt giam trong những tháng gần đây như Phổ Chí Cường, bị buộc tội “gây mất trật tự, kích động cãi vã”. Luật sư Đường Kinh Lăng thì bị tội “ âm mưu khuynh đảo chế độ” còn Hứa Chí Vĩnh đã bị kết án 4 năm tù hồi tháng Tư năm nay, với tội danh “tổ chức tập họp gây mất trật tự công cộng”.
Giáo sư Ilham Tohti là tiếng nói Trung Hoa độc lập duy nhất dám trình bày công khai những nguyên nhân sâu xa đưa đến tình trạng xung đột sắc tộc đẫm máu tại Tân Cương. Một khi “vô hiệu hóa” được tiếng nói này, Bắc Kinh tha hồ tiếp tục chính sách đồng hóa các sắc dân thiểu số và áp đặt quan điểm chính thống.
Nạn nhân thứ hai trong tương lai rất có thể là bà Tsering Woeser, cũng từ Hoa lục, can đảm tố cáo những vụ việc nghiêm trọng xảy ra tại Tây Tạng gây tang tóc tại vùng đất Phật, nơi mà phóng viên quốc tế bị cấm vãng lai. Hơn 130 vụ tự thiêu xảy ra trong ba năm 2011-2014.
Nữ sĩ Tsering Woeser là người có quốc tịch Trung Hoa mang dòng máu Tây Tạng sinh năm 1966 trong gia đình tôn sùng “cách mạng”. Tác giả của hàng chục tác phẩm nghiên cứu, được 5 giải thưởng quốc tế, bà can đảm chuyển đến báo chí Tây phương, qua internet, những thông tin liên quan đến Tây Tạng.
Tsering Woeser đã trả giá khá nặng, bị quản thúc.Người thân trong gia đình bị công an bảo vệ chính trị đe dọa coi chừng “hậu quả” nếu không thuyết phục được nữ sĩ im lặng. Vì sợ mất việc, người em trai của bà không dám “nói chuyện” với chị từ hai năm nay.
“Sát kê dọa hầu”
Ilham Tohti, trước khi bị bắt, cũng bị nhiều áp lực tương tự. Bản thân ông và gia đình bị công an thường phục đe dọa ám sát. Mục tiêu của những lời hăm dọa này một mặt là để buộc ông phải im tiếng và mặt khác để trấn áp những người tranh đấu khác theo mưu kế “ giết gà dọa khỉ”.
Để hù dọa giới phóng viên, an ninh chọn đối tượng cứng cỏi nhất để đánh phủ đầu. Năm nay, nhà báo Cao Du, một phụ nữ 70 tuổi, biết rõ nhiều việc cơ mật trong nội tình chóp bu đảng Cộng sản Trung Quốc đột nhiên “mất tích” hồi tháng Tư. Đến tháng Năm, người ta thấy bà xuất hiện trên đài truyền hình đọc “những lời thú nhận phạm tội tiết lộ bí mật quốc gia”.
Bằng cách nào công an chính trị ép buộc nhà báo có uy tín này chấp nhận tủi nhục tự tố cáo sĩ nhục mình làm ớn lạnh hàng chục triệu khán giả màn ảnh nhỏ Trung Quốc ? Theo thân nhân của bà Cao Du, công an dọa truy tố cả đứa con trai của bà nếu bà không tuân thủ.
Chế độ Tập Cận Bình điên tiết vì “tài liệu mật số 9” của bộ chính trị bị tiết lộ. Tài liệu này do chính tay Tập Cận Bình biên soạn “tuyên chiến với dân chủ và nhân quyền” :
“Chúng ta không nên để lan truyền những ý kiến khác biệt với quan điểm của Đảng và đường lối chính sách của Đảng. Chúng ta cũng không để cho các quan điểm chống lại quan điểm của lãnh đạo được phổ biến”.
Nhờ lòng can đảm và yêu chuộng tự do của một phụ nữ ở đúng chỗ, làm đúng việc, mà chỉ đạo chiến lược của chủ tịch Trung Quốc về chính sách 10 năm tới đây trong tập tài liệu mật mang số 9 được công khai hóa. Ông chỉ rõ kẻ thù của đảng Cộng sản Trung Quốc là “ dân chủ hiến định theo mô hình Tây phương, giá trị phổ quát của nhân quyền, xã hội dân sự , tự do báo chí, chủ thuyết tân tự do…”.
Bước ngoặt cực kỳ chuyên chế độc tài mà Trung Quốc đang bị lôi vào vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của chính sách cải tổ cấu trúc của chế độ. Chủ trương “tập thể lãnh đạo” do Đặng Tiểu Bình đề xướng vào năm 1997 đã bị thay thế.
Từ ngày lên cầm quyền và nắm hết ba chức vụ lãnh đạo cao nhất gồm chủ tịch Đảng, chủ tịch Nước và chủ tịch Quân ủy Trung ương tức quân đội, ông Tập Cận Bình không ngừng củng cố quyền lực.
Trước hết, ông tự phong chức vụ đứng đầu bốn “cơ quan chỉ đạo” gồm an ninh, quốc phòng, kinh tế, cải cách tổng quát và kiểm duyệt mạng. Tiếp theo đó, Tập Cận Bình khéo léo khai thác chiến dịch chống tham nhũng, vừa để thu phục nhân tâm, vừa loại trừ một số đối thủ chính trị trong đảng và thay thế bằng những kẻ trung thành hoặc những người chịu ơn.
Cuộc thanh trừng chính trị này, tuy không nói tên, năm 2013 đã dẫn đến bản án chung thân cho Bạc Hy Lai, ngôi sao chính trị đang lên trong chính trường độc đảng tại Trung Quốc và hàng chục ngàn cán bộ bị cách chức, bị án tù vì tội danh tham ô.
Động thái kế tiếp của Tập Cận Bình là phát súng ân huệ dành cho cựu trùm mật vụ Trung Quốc Chu Vĩnh Khang, nhân vật có thế lực nhất nhì trong ban lãnh đạo tiền nhiệm. Ông Chu cũng bị kết tội tham nhũng.
“Tôn sùng cá nhân lên ngôi”
Khi tấn công vào một thành viên của bộ Chính trị, Tập Cận Bình muốn gửi thông điệp cảnh báo mọi người là không ai có thể chống lại ông. Nhân vật được một số người gọi là “tân hoàng đế” huy động toàn bộ phương tiện truyền thông vào cá nhân mình, tái lập hình ảnh “lãnh đạo tối cao” theo mô hình Mao đã bị cấm từ khi Mao Trạch Đông qua đời.
Song song với những tuyên bố của Mao Trạch Đông mà Tập Cận Bình luôn trích dẫn đưa vào diễn văn, “hoàng đế mới” còn sáng chế ra những ngạn ngữ ca tụng cá nhân mình. Chẳng hạn như hồi tháng Tư, ông tuyên bố : “vận tốc của đoàn tàu hỏa tùy thuộc vào đầu máy”.
Theo giáo sư Willy Lâm, một nhà phân tích chính trị có uy tín tại Hồng Kông thì trái với nhà lãnh đạo cải cách Đặng Tiểu Bình, ông Tập Cận Bình nhấn mạnh đến vai trò cá nhân: khả năng và phẩm chất của người thủ lĩnh là chìa khóa thành công của đảng và nhà nước.
Một nhà dân chủ được Libération giấu tên phân tích: Trước thời Tập Cận Bình, công an bảo vệ chính trị có mục tiêu duy nhất là kiểm soát xã hội công dân. Họ bắt giam, trấn áp các nhà hoạt động dân chủ có uy tín hoặc có hành động vượt qua là ranh giới hạn đỏ. Giờ đây, với Tập Cận Bình, công an bảo vệ chính trị từ nay có nhiệm vụ tạo môi trường như thế nào để xã hội công dân không còn không gian để sống”.
Theo thông tin mới nhất, từ khi phong trào tranh đấu “Cách Mạng Ô Dù” diễn ra tại Hồng Kông, hàng loạt dân mạng Hoa lục bị bắt vì chia sẻ tình đoàn kết.
Danh sách của Asia News vào ngày hôm qua là 17 người. Hôm nay có thêm 10 người trong đó có phụ nữ hoạt động nhân quyền Lý Đông Mai và thi sĩ Vương Tạng bị mời về trụ sở công an.
Nếu hoàng đế Tập cư xử với dân Trung Hoa như vậy thì liệu tương lai nào dành cho các dân tộc, đất nước láng giềng từ Tây Tạng, đến Tân Cương, từ Hồng Kông xuống tận Đông nam Á, khu vực nằm trong tham vọng biển đảo của Bắc Kinh ?
|
|
|
Post by BTN on May 21, 2015 10:41:27 GMT -6
Nhận diện đao phủ bức tử Việt Nam
Nhà văn Võ Thị Hảo
Mon, 03/30/2015
“Việc của người biết suy nghĩ là không đứng cùng phía với đao phủ.”-Albert Camus. TQ tuyên bố chủ quyền ở VN
Hiện vẫn còn một nước tên là Việt Nam nhưng cái tên chưa đủ để minh chứng rằng nước chưa mất. Việt Nam bây giờ cũng như một cây cổ thụ ngàn năm tuổi đang bị lưỡi cưa máy đốn hạ, lá trên cây dù chưa rụng hết nhưng dưới gốc thì thân gỗ đã bị xẻ làm muôn mảnh đem bán để ghép thành cái tràng kỷ kê chỗ ngồi cho nhiều nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Đám người này đã sốt sắng dâng lên đám đầu lĩnh Trung Quốc bữa đại tiệc với món chính là máu thịt của đất nước Việt Nam.
Chi tiết quan trọng nhất khiến người ta nghi ngờ rằng VN đã mất chủ quyền lãnh thổ vào tay TQ đã thể hiện trong một sự kiện chấn động khiến thế giới sửng sốt và bất bình nhưng nhà cầm quyền VN thì im lặng chấp nhận.
Tại cuộc họp báo ngày 8/3/2015, ông Vương Nghị - Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc đã lớn tiếng tuyên bố với thế giới rằng việc TQ xây các đảo đá trên biển Đông là xây trên sân nhà của họ và chỉ trích kịch liệt những ai phản đối hành vi này của TQ. Và cái phần mà TQ khẳng định là „sân nhà“ ấy, lại đang là lãnh hải của VN có lịch sử từ lâu đời và đã được công ước quốc tế đương nhiên thừa nhận.
Tuyên bố trên của TQ gây bàng hoàng và phẫn nộ cho những người công tâm và am hiểu lịch sử vấn đề. Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về biển Đông tại Học viện Quốc phòng Australia khi trả lời phỏng vấn của RFI đã không che giấu sự bất bình: “Tôi vô cùng kinh ngạc khi đọc thấy ý kiến của Ngoại trưởng Trung Quốc đưa ra vài hôm trước ngày kỷ niệm 27 năm cuộc tấn công của Hải quân Trung Quốc vào tàu hậu cần Việt Nam ở khu vực quan Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) ngày 14/3/1988. Nhận xét của ông Vương Nghị vừa thô bạo, vừa ngạo mạn.”
Dù liên tục lấn chiếm VN từ biên giới đến biển đảo, nhưng đây là lần đầu tiên TQ dám ngang ngược tuyên bố biển Đông là sân nhà. Việc TQ xây dựng những chuỗi đảo nhân tạo trên lãnh hải VN rõ ràng là hành động xâm lược, là bàn đạp để TQ thôn tính VN.
Trước sự xâm lược trắng trợn đó, trách nhiệm tối thiểu của nhà cầm quyền VN là phải lập tức phản đối mạnh mẽ trước hết trên lĩnh lực ngoại giao, đồng thời vận dụng các lực lượng quân sự, chính trị , sức mạnh quốc tế để buộc TQ trả lại chủ quyền lãnh thổ.
Nhưng sự ngược đời đã xảy ra. Sau tuyên bố của Vương Nghị, đến tận hôm nay VN vẫn không lên tiếng phản đối. Càng lạ lùng hơn là cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao VN dự định tổ chức vào ngày 12/ 3/2015, ba ngày sau tuyên bố của TQ lại bị xóa bỏ. Lộ trình đao phủ bức tử VN
Trước sự im lặng chấp nhận của VN, TQ đã nuốt trọn phần còn lại của con mồi. Phần đầu đã được tiêu hóa xong từ những năm trước đây, khi những nhà cầm quyền VN từ cấp địa phương tới Trung ương đã hăm hở giao đất rừng dọc biên giới mà hầu hết là những vị trí hiểm yếu về an ninh quốc phòng cho TQ thuê và quản lý tới 50 năm theo phương thức người TQ tha hồ tung tác trong đó.
Thiếu tướng Nguyễn Kim Khoa - chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh của Quốc hội cho biết trên báo Đất Việt ngày 18/6/2014 : Qua khảo sát ở một số nơi, đã thấy có 19 dự án được các địa phương cấp phép cho thuê tới khoảng 398.374 ha đất rừng dọc biên giới Việt - Trung, đặc biệt là những vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng. (Trong khi đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chỉ báo là 10 tỉnh).
Mức giá mà VN cho TQ thuê đất rừng biên giới rẻ mạt đến mức không tưởng tượng nổi: nhiều nơi TQ chỉ phải trả 2,75 đ cho mỗi mét vuông đất mỗi năm! (Theo đại biểu QH Trần Việt Hưng(Hòa Bình) – báo Thanh niên đưa tin ngày 12/6/2010)
Nhận định của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng thực sự các cấp chính quyền đã bán rừng và dồn đất nước VN vào tình trạng tự sát, khiến VN mất đi vùng lãnh thổ quan trọng nhất về quốc phòng an ninh.
Mặc dù vậy, cho đến nay không một ai phải chịu trách nhiệm về những hành vi có thể coi là bán nước và phản quốc này.
Cùng trên lộ trình các cấp chính quyền VN để ngỏ cửa cho những kẻ xâm lược VN, họ còn tạo điều kiện đặc biệt dễ dàng cho người TQ vào kinh doanh, sản xuất, trốn thuế, thuê đất trồng lúa, rau quả, thuê mặt nước nuôi tôm cá... lập những đặc khu TQ như ở Vũng Áng – Hà Tĩnh và nhiều nơi. Song song với những chính sách về chính trị, ngoại giao và quốc phòng, an ninh, những chính sách về kinh tế thương mại đã giết chết nền sản xuất của VN và biến VN thành thị trường tiêu thụ hàng rởm và hàng độc hại của TQ. Không những nền kinh tế chính trị và văn hóa của VN bị bức tử mà cả VN đang bị biến thành một bệnh viện khổng lồ trong đó chen chúc những người dân đang chết dần mòn vì hóa chất độc hại của TQ.
Trong tình thế ấy, thay vì bảo vệ đất nước và nhân dân, nhà cầm quyền VN đã liên tục dùng mọi lực lượng từ văn hóa tư tưởng, báo chí truyền thông tới công an và côn đồ để ngăn chặn, vu cáo, mạt sát, khủng bố, đánh đập, bỏ tù, bao vây về kinh tế, cắt cả nguồn sống của những ai dám bày tỏ lòng yêu nước, bảo vệ tự do dân chủ và phản đối TQ xâm lược. Đến các cuộc dâng hương tưởng niệm những người đã hy sinh trong những cuộc chiến bảo vệ đất nước chống TQ tàn sát cũng bị nhà cầm quyền cho các lực lượng công an, dân phòng, dư luận viên và côn đồ ngăn cản.
Với những hành động có hệ thống, nhất quán trong nhiều năm như vậy, dư luận có quyền nhận định rằng nhà cầm quyền VN đã có quyền lợi chung với đám đao phủ TQ đang bức tử đất nước VN.
Để dẹp tan dư luận, Bộ trưởng quốc phòng VN – lại có những hành động bất chấp sự thật, trách nhiệm và và lương tâm khi khẳng định rằng “quan hệ Việt Trung vẫn phát triển tốt đẹp” và coi việc xâm lược của TQ chỉ là “mâu thuẫn gia đình”. Hơn thế nữa, Ngày 31/12/2014, vị này còn lớn tiếng răn đe và kết tội rằng người VN ghét TQ là một việc nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước cũng như quan hệ giữa hai quốc gia. (theo tinphapluat.com)
Dù không muốn thừa nhận sự thật đau lòng, người VN cũng không thể không nhận thấy dù cái tên VN còn đó, nhưng hồn nước thì đã bị nhiều nhà cầm quyền cộng sản làm tay sai cho TQ giẫm đạp mỗi ngày. Tung hoành trên mảnh đất này là dòng máu phản trắc đớn hèn đã được tiêm vào động mạch của vô số nhân vật trong các bộ máy quyền lực. Đó thực sự là đám tay sai của TQ, núp dưới chiêu bài Đảng cộng sản VN, lấy chủ nghĩa Mác Lê nin và ý thức hệ xã hội chủ nghĩa mà nhân loại đã lên án là tội ác chống lại loài người làm bức màn sắt che cho những tham vọng, quyền lợi nhóm, để chĩa họng súng độc tài vào người dân, biến VN thành một “nhà tù” khổng lồ đàn áp bất cứ ai dám phê phán, ngăn cản con đường bán nước của chúng.
Người VN trong tình thế đó, là những con gà bị trói chặt, dao đã kề cổ. Ai cam tâm im lặng, chịu đi nhặt cơm thừa canh cặn, tung hô khen ngợi đám tay sai bán nước, tiếp tay cho bọn xâm lược, hoặc tiếp tục vắt kiệt máu mỡ mình nuôi bộ máy cầm quyền phè phỡn trên xương máu nhân dân thì sẽ được tồn tại.
Nhưng thế có phải là cuộc sống con người?
Người VN đã tê dại. Đã lạc mất linh hồn, Đến mức số đông đã mặc kệ mọi sự, cam chịu dao kề cổ và trong khi đang kê chiếc cổ gầy dưới lưỡi dao đao phủ , người VN cũng tương tự nhà cầm quyền của họ, chỉ dám mơ tới một con dao đao phủ cùn hơn để cứa cổ mình lâu chết hơn, chứ không dám mơ tới việc phải làm gì để thoát khỏi lưỡi dao ấy. Không ít người do không am hiểu tình hình nên đã trở thành độc ác, đứng về phía đao phủ bức tử VN, a dua mạt sát những dân oan hoặc những đồng bào đã không quản nguy hiểm đấu tranh cho quyền lợi của đất nước và cho cả chính họ. Mất nước là bởi nhà cầm quyền VN
Vùng đảo Gạc Ma nhìn từ trên cao, ảnh minh họa chụp hôm 15/5/2014.
TQ thực sự rất ngang ngược, tham lam và đã dùng nhiều thủ đoạn đối với loài người trên thế giới này. Không ngẫu nhiên khi có nhiều tài liệu khoa học thống kê, phân tích về những thủ đoạn thâm hiểm, tàn bạo của nhà cầm quyền cộng sản TQ và một trong những cuốn sách rất nổi tiếng đã được xuất bản mang tên “Chết bởi tay Trung Quốc” của hai giáo sư kinh tế học Perto Navarro và Greg Autr đã cảnh báo loài người về những tham vọng và hiểm họa mà TQ mang tới để các nước đối phó.
VN “đã chết bởi tay TQ”! Nhưng khốn khổ khốn nạn ở đây là cái chết do VN tự chuốc lấy. Chết chỉ vì nhà cầm quyền cộng sản đã bằng mọi giá, thà hy sinh lãnh thổ, danh dự, đất nước, nhân dân chứ không chịu mất Đảng, mất thể chế cộng sản.
Họ yêu Đảng, yêu Mác Lê nin, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đến thế kia ư?
Hoàn toàn không. Ở trong bộ máy, họ biết quá nhiều hành vi bỉ ổi độc ác của nhau và của thứ chủ nghĩa này. Họ gắn bó chẳng qua thể chế ấy, chủ nghĩa ấy là một cỗ xe bọc thép mang vũ khí hạng nặng bảo vệ hữu hiệu nhất cho băng cướp tham nhũng tha hồ lừa bịp và cướp bóc người dân. Thế giới đã chứng minh cỗ xe cộng sản càng lăn đi càng chất chồng tội ác. Sự sợ hãi bị mất tất cả đã khiến nhà cầm quyền gắn với thể chế cộng sản như mạng sống. Họ đã lựa chọn con đường hy sinh đất nước và nhân dân để giữ chế độ độc tài nhằm bảo vệ cho giai cấp thống trị tha hồ cướp bóc.
Đó cũng là điều mà TQ đã rất khôn ngoan tận dụng để thao túng đám cướp bóc này. Đám này còn rất sốt sắng thực hiện mưu đồ nhập VN vào TQ trong năm 2020 theo như cam kết của Hội nghị Thành Đô 1990. Tham vọng vĩ cuồng mang hơi hướng Mao Trạch Đông của Tập Cận Bình cộng với và sự nôn nóng muốn rảnh tay nên giao đất sớm cho TQ của đám bán nước VN, nay đã về đích trước 5 năm so với kế hoạch?!
Albert Camus nói: “Việc của người biết suy nghĩ là không đứng cùng phía với đao phủ”. Khi nhà cầm quyền hoặc người VN đứng về phía đao phủ , thì chính họ đang hái quả trên ngọn cây nhưng lại dùng lưỡi cưa xẻ nát thân cây đã dung dưỡng họ.
Xét những động thái khác thường qua tuyên bố của TQ và sự im lặng chấp nhận của VN, dư luận không thể không nhận ra VN đã nằm gọn trong cái mõm tham lam của TQ. Cánh tay của nước Mỹ dù mạnh nhưng đã bị khước từ bởi chính nhà cầm quyền VN không những chỉ đứng về phía đao phủ mà còn là tay trong cho đao phủ. Nước Mỹ và khối các nước văn minh hiện giờ chỉ còn chứng kiến những cú đong đưa cầu lợi của VN đang được điều khiển bởi đầu não TQ mà thôi.
Nhưng chính TQ cũng đang phải đối diện với nguy cơ sụp đổ trong tương lai gần bởi chính những khối ung thư nội bộ của họ. Sự phát triển nôn nóng bất chấp danh dự và thủ đoạn của nền kinh tế TQ đương nhiên sẽ mau chóng phá vỡ cái vỏ chật chội lạc hậu của thể chế chính trị phi tự nhiên theo ý thức hệ cộng sản đã bị loài người tẩy chay. Việc cộng dồn những tội ác chống lại loài người mà nhiều thế hệ nhà cầm quyền TQ đã làm với người dân của họ và thế giới cũng sẽ đến ngày “tức nước vỡ bờ”, chưa kể những chấn động mạnh mẽ của cuộc tranh giành quyền lực phe nhóm đang diễn ra dưới vỏ bọc “đả hổ diệt ruồi” tại TQ.
Sự sụp đổ ấy đương nhiên sẽ kéo theo sự tan vỡ bi thảm trong một ngày không xa của thể chế cộng sản VN đã tự nguyện nộp mình vào tay TQ thay vì thức thời đón nhận những cơ hội của Cách mạng Nhung VN, tự cải cách thể chế, đồng hành với quyền lợi của toàn dân tộc.
Và dẫu nước VN có mất về tay TQ, những người gắng gỏi vì đất nước và người dân VN không tuyệt vọng. Cuộc đấu tranh đòi thoát khỏi thể chế cộng sản để cứu nước, đem lai toàn vẹn lãnh thổ, dân chủ, tự do và nhân quyền cho người VN dù khó khăn nhưng là một cuộc chạy tiếp sức của các thế hệ. Nhà cầm quyền không bao giờ có thể tiêu diệt hết được những người yêu nước yêu công lý và yêu tự do.
Nhà văn Võ Thị Hảo, viết từ Hà Nội
|
|
|
Post by BTN on May 27, 2015 15:09:18 GMT -6
‘Một tai nạn trên Biển Đông có thể khơi mào chiến tranh Mỹ-Trung’
Editor | May 27, 2015 9:56 am Máy bay chiến đấu F/A 18 của Hải quân Mỹ cất cánh từ tàu sân bay USS Nimitz ở Biển Đông.
Một chuyên gia về chính sách từng giảng dạy tại Đại học Yale của Hoa Kỳ cảnh báo một ‘tai nạn’ ở Biển Đông có thể dẫn tới chiến tranh Mỹ-Trung, và nguy cơ xung đột xảy ra giữa hai cường quốc này hiện nay cao hơn bất kỳ thời điểm nào trong 20 năm qua.
Trong một bài viết cho tờ The Commentator, Giáo sư Michael Auslin, từng giảng dạy môn Lịch sử tại trường Đại học Yale, nêu ra 3 tình huống mà ông nói có thể dẫn tới xung đột.
Tình huống thứ nhất, theo ông Auslin là một tai nạn máy bay đâm va vào nhau trên không phận Biển Đông, tương tự như vụ một chiến đấu cơ Trung Quốc và một phi cơ trinh sát của Hải quân Mỹ đụng nhau ngoài khơi đảo Hải Nam, gây ra một vụ tranh cãi quốc tế.
Giáo sư Auslin nói rằng trong bối cảnh Hải quân Mỹ đang xem xét tới việc điều tàu chiến tới phạm vi 12 hải lý cách các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng trong Biển Đông, và như thế tiến vào vùng biển mà giờ Trung Quốc tuyên bố là thuộc lãnh thổ có chủ quyền của họ, thì khó có thể tránh khỏi những hành động quấy nhiễu của các tàu Trung Quốc đối với các tàu Mỹ, có nguy cơ dẫn tới một tai nạn tàu va vào nhau, kéo theo phản ứng của cả hai bên.
Ông Auslin nói đó là điều mà Trung Quốc đã làm với tàu bè của các nước khác, và một tai nạn có thể dẫn hai nước tới chỗ đối đầu với nhau.
Giáo sư Auslin nói tình huống này rất dễ xảy ra, một khi Trung Quốc hoàn tất việc xây các phi đạo trên các quần đảo trong Biển Đông, tạo điều kiện cho các chiến đấu cơ tuần tra trong không phận của các đảo này.
Tình huống thứ nhì, theo Giáo sư Auslin, là Trung Quốc có thể cố tình tạo điều kiện cho một vụ đối đầu bằng cách chỉ thị cho máy bay của họ đeo sát máy bay của Mỹ, với hy vọng sẽ tăng nguy cơ xảy ra xung đột để buộc chính phủ của Tổng Thống Obama nhượng bộ, trong bối cảnh Hoa Kỳ còn đang phải ứng phó với nhiều thách thức ở Trung Đông và với Nga ở Châu Âu.
Tình huống thứ ba là nếu Trung Quốc chận đầu các máy bay của các nước đồng minh của Mỹ như Philippines chẳng hạn. Washington lúc đó có thể can thiệp một cách chính đáng, viện lẽ Mỹ có nghĩa vụ bảo vệ luật pháp quốc tế.
Giáo sư Auslin nhận định trong khi không có một cơ chế nào để giải toả căng thẳng, và trong bối cảnh giữa hai nước hiện thiếu sự tin tưởng lẫn nhau, và khả năng quân sự của Trung Quốc đang được tăng cường, thì càng ngày càng có nhiều rủi ro hơn đối với Hoa Kỳ trong việc đối đầu với tham vọng bành trướng của Trung Quốc.
Ông Auslin kết luận rằng trong 20 năm qua, chưa có lúc nào mà nguy cơ xảy ra xung đột giữa hai nước lớn này lại cao đến mức này.(VOA)
Nguồn: WSJ, CNN, Defensenews
|
|
|
Post by BTN on May 28, 2015 14:49:07 GMT -6
Thời cơ và vũng lầy của toàn dân tộc chúng ta
Thanh Tôn
28-05-2015
Dân tộc ta đang rơi vào trong một vũng lầy. Ngày xưa đất nước của cha ông ta hùng dũng lắm và rừng vàng biển bạc; nhưng từ khi bị hàng xóm 16 chữ vàng Trung Quốc(TQ) khống chế, hút cát be bờ biển đảo, mua đứt các vùng cao hiểm yếu Tây nguyên, Hải Vân, Vũng án…, các vùng rừng núi đầu nguồn biên giới, mua đứt bọn đầu lĩnh thì đất nước của dân tộc chúng ta chỉ còn lại là một vũng lầy. Một vũng lầy khổng lồ mà dân ta đang phải ngập ngụa trong rác rến vật chất hư thối, và rác rến tinh thần kinh tởm…
TQ đã và đang tha hồ đổ rác, đủ thứ rác rến công nông nghiệp quá đát, đủ thứ rác thải hàng tiêu dùng và thực thẩm tẩm bọc đầy hóa chất tàn độc, ung thư bịnh hoạn; đủ thứ rác rưởi từ ý thức hệ CS, nhận giặc làm bạn dẫn đến tư tưởng nô lệ hèn kém khiếp nhược, lối sống mạnh được yếu thua khủng bố bạo lực, đạo đức vô cảm bất nhân băng hoại hận thù … trút lên đầu dân tộc ta mà ĐCSVN, người canh cửa nhà nay đã đồng lõa bỏ ngõ. Dân tộc ta, con cháu ta ngày càng ngập ngụa trong rác Tàu, ngày càng lún sâu hơn vào vũng lầy rác Tàu!
Trong vũng lầy dân tộc ta vẫn cứ đang ngày càng chìm lún xuống. Bọn Tàu cộng đang muốn nhanh chóng hủy diệt, chôn sống luôn cả dân tộc VN này, để nhanh chóng cắm cờ thái thú, và tìm đường ra biển Đông xưng hùng xưng bá!
Vũng lầy vẫn cứ đang lún, chìm nhanh xuống. Sống trong vũng lầy, ăn ở hít thở trong vũng lầy, ngày càng lún xuống, tụt xuống sâu hơn trong vũng lầy, dân ta cũng đã và đang cố vùng vẫy thoát ra nhưng vô vọng bởi trên vai đang phải gánh thêm một gánh nặng khủng khiếp, đang phải vừa nuôi báo cô vừa phải đội trên đầu một ngôi nhà CS nặng nề với gần bốn triệu tên đảng viên CS hèn với giặc ác với dân, đĩ miệng giả dối bất tài, chỉ biết ăn chơi béo phì bịnh hoạn ăn không ngồi rồi, bót lột ND và cùng nhau nhảy múa vũ điệu quy hàng…
Vũng lầy của dân tộc chúng ta vẫn cứ đang chìm nhanh xuống. Một số anh thư, hào kiệt cũng đã từng dũng cảm hô hào vùng vẫy ngoi lên nhưng đa số đã bị khủng bố, nhận chìm trong tù tội, bởi còn đơn độc thân yếu thế cô, chưa được sự quan tâm ủng hộ của số đông quần chúng…
Vũng lầy của dân tộc chúng ta vẫn cứ đang chìm nhanh xuống. Một số rất ít trong chúng ta từng liều chết, may mắn chạy thoát ra ngoài, nay bòn góp từng xu từng cắt mua phao gởi về cho thân tộc, những cái phao mang tên du học, HO đoàn tụ gia đình, phao định cư, phao xuất cảnh hợp tác lao động… cũng chỉ tạm thời cứu giúp được cho một số ít người.
Vũng lầy của dân tộc chúng ta vẫn cứ đang chìm nhanh xuống…Đa số đám CS chóp bu lắm tiền nhiều của cũng đã mua xong phao chạy, đã bắt xong cầu chuồn. Bọn chúng cứ tưởng là có gì chúng sẽ chuồn sang Tàu, chạy đi Tây ngay được với túi châu báu ngọc ngà cướp được mà chúng quên rằng một khi đã chìm sâu vào trong tuyệt vọng, trước khi liều mình vùng lên để tránh chết chùm, đảng cầm quyền CS độc tài toàn trị chính là thứ mà người dân VN sẽ phải quật nát, sẽ dày xéo trước tiên!
Vũng lầy của dân tộc chúng ta vẫn cứ đang chìm nhanh xuống, nhưng may thay sự lộng hành quá đáng của TQ đã bộc lộ quá rõ dã tâm, tham vọng của họ, đã biến họ trở thành nguy cơ chung của loài người trong khu vực và cả trên toàn thế giới; buộc người Mỹ vì quyền lợi của chính nước Mỹ và cũng vì lợi ích chung của loài người tiến bộ, đang liên kết cùng nhiều cường quốc như Nhật, Úc, Ấn… ra mặt cản đường TQ, Mỹ đang mạnh mẻ lên án và đã có hành động cụ thể buộc TQ không được tiếp tục hút cát be bờ, bao vây chận đường biển triệt đường không… của dân tộc chúng ta. Người bạn Mỹ đang mạnh mẽ, hào phóng chìa tay ra, đang thả thang xuống, đang ném phao vào… vũng lầy. Chỉ quái lạ là sao cũng có những người VN chỉ vì chút quyền lợi riêng tư, tuy nói tiếng VN, hưởng bổng lộc lương bổng từ NDVN nhưng vẫn cứ thích sống mãi trong vũng lầy của Tàu, cứ thích chờ nhận rác từ giặc Tàu, chờ ngày dâng đất, dâng vợ dâng con làm nô lệ giặc Tàu…
Thoát ngay ra khỏi vũng lầy, thoát ngay ra khỏi nguy cơ 1.000 năm nô lệ giặc Tàu lần thứ hai là nguyện vọng chung của toàn dân tộc, nhưng thật đau lòng và thật đáng lo, khi dân tộc ta chưa cùng mạnh mẽ lên tiếng và hành động… để cùng tham gia làm áp lực, cùng tự chủ động quyết định được vận mạng của dân tộc mình mà hình như đang cứ phải trông mong, chờ đợi… một quyết định du dây may nhờ rủi chịu nào đó từ chỉ một nhúm người, mà với bọn họ thì quyền lợi của ĐCS luôn là cao nhất; và trong số họ có không ít những kẻ đã lộ rõ chân tướng, chân dung của những thằng bán nước, là tay sai thái thú!
Thời cơ không dễ đến và không chờ đợi mãi những người vô cảm, và thời cơ cũng sẽ trôi qua rất nhanh nếu dân tộc ta vẫn cứ ơ thờ, vẫn cứ chấp nhận ngụp lặn trong vũng lầy rác rưởi!
|
|
|
Post by BTN on May 28, 2015 14:53:13 GMT -6
Chuyên gia Nguyễn Mạnh Hùng cảnh báo: chiến tranh với Trung quốc đang chờ Việt Nam ở Biển đông
Phạm Trần (Danlambao) - Lời người viết: Cường độ xung khích bằng lời nói giữa Việt Nam, Phi Luật Tân và Hoa Kỳ với quyết tâm bành trướng lãnh thổ mau chóng của Trung Quốc ở Biển Đông trong năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015 đã gia tăng hiểm họa chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Lý do vì Trung Quốc đã đặt Hoa Kỳ vá các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt Việt Nam và Phi Luật Tân, vào “tình trạng đã rồi” qua việc họ tấp nập ngày đêm tân tạo các bãi đá ngầm thành đảo có phòng tuyến quân sự ở khu vực Trường Sa. Trung Quốc còn dự tính thiết lập mạng lưới “nhận diện phòng không” để kiểm soát không lưu ở Biển Đông, sau khi dựng 2 ngọn Hải Đăng ở Gạc Ma và Châu Viên.
Việc làm của Trung Quốc không chỉ nhằm chặn đường tiến của Việt Nam ra Biển Đông mà còn đe dọa an ninh hàng hải huyết mạch của Thế giới.
Vậy Việt Nam phải làm gì để bảo vệ chủ quyền?
Theo quan điểm của Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, một chuyên gia về Chính trị và Bang giao Quốc tế của Đại học George Mason thì “không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ”.
Trong cuộc Phỏng vấn riêng với chúng tôi (Phạm Trần), Giáo sư Hùng, một Học giả không thường trú của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quan hệ Quốc tế nổi tiếng ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn (CSIS, Center for Strategic&International Studies) còn thảo luận về mối quan hệ tay ba phức tạp trước tình hình Biển Đông giữa Việt Nam-Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Cuộc Phỏng vấn này được đài Truyền hình SBTN phát sóng trên toàn Bắc Mỹ vào lúc 11:00 PM tối Thứ Sáu, 29/05/2015, giờ miền Đông Hoa Kỳ, hay 8:00 PM giờ California.
Sau đây là toàn văn cuộc Phỏng vấn:
Biển đông căng thẳng
Hỏi: Thưa Giáo sư, là Nhà nghiên cứu, ông thấy sự gia tăng cường độ hiềm khích giữa Việt Nam và Trung Quốc về tình hình Biển Đông trong thời gian gần đây như thế nào?
Đáp: Rất căng thẳng và khó chịu, khởi đầu bằng việc Trung Quốc tuyên bố đường lưỡi bò năm 2009 đòi chủ quyền trên 80 phần 100 Biển Đông, và cao điểm là việc họ đem dàn khoang khổng lồ HD 981 vào thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của VN mùa Hè năm ngoái (từ ngày 02/05 đến 15/07/2014) dẫn đến các cuộc biểu tình bạo động chống các cơ sở thương mại của Trung Quốc tại Việt Nam.
Gần đây, họ gấp rút lấp biển, biến các đá ngầm thành các đảo nhân tạo có tiềm năng quân sự, tăng cường khả năng khống chế và kiểm soát của TQ trong một vùng quan yếu tại Biển Đông và chặn đường tiến của VN ra biển. Có người gọi việc làm này của TQ là việc xây dựng một “trường thành trên biển.”
Hỏi: Trong bối cảnh dân chúng Việt Nam nói với Quốc hội rằng họ rất bất bình trước việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo trên 7 bãi đá mà họ chiếm được của Việt Nam trong khu vực Trường Sa năm 1988, và đề nghị Chính phủ có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Theo ông thì Việt Nam có thể làm được gì vào lúc này?
Đáp: TQ biến các đá chìm thành đảo là việc đã rồi, không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ.
Riêng đối với Việt Nam, việc cần làm là cố giữ các đảo đã có, làm áp lực để TQ ngưng xây thêm, và ngăn cản không cho TQ độc quyền kiểm soát, tuần tra, và khai thác trong vùng biển tranh chấp.
Tất cà những việc này, Việt Nam không thể làm một mình có hiệu quả, mà cần có thêm sự phối hợp với các nước ASEAN có cùng quyền lợi, nhất là sự trơ giúp của các nước lớn như Mỹ, Nhật, Ấn. v.v…
Hỏi: Đại sứ Mỹ ở Hà Nội Ted Osius nói rằng chiến lược bành trướng lãnh thổ ở Biển Đông của Bắc Kinh trong thời gian gần đây đã khiến cho Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội xích lại gần nhau hơn, tiêu biểu là Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ashton (Ash) Carter sẽ thăm Việt Nam nay mai và sẽ có tới 5 Ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN sẽ thăm Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Tôi biết Giáo sư là người theo dõi các biến chuyển này rất chặt chẽ, vậy ông đánh giá các chuyến thăm cao cấp của hai nước Việt-Mỹ như thế nào và liệu Bắc Kinh có quan tâm không?
Đáp: Các nhà lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, thường kêu gọi hai bên phải xây dựng niềm tin chiến lược. Những hoạt đông mà ông vừa kể là cốt để gia tăng niềm tin ấy, đặt căn bản cho sự hợp tác quốc phòng chặt chẽ hơn giữa hai nước.
Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ sau hội nghị Đối thoại Sanghri-La (tại Tân Gia Ba từ ngày 29 đến 31/5/2015), và của một phái đoàn các nhà lãnh đạo ủy ban quốc phòng của Thượng Viện Mỹ trước khi họ đi Sanghri-La chắc chắn là để chuẩn bị cho nội dung hợp tác quốc phòng Việt-Mỹ trong chuyến thăm Mỹ sắp tới của Tổng Bí Thư (Nguyễn Phú)Trọng.
Tiến trình này chắc chắn buộc TQ phải quan tâm.
(Chú thích: Trước khi đến dự Hội nghị Sanghri-La, Phái đoàn Nghị sỹ Cộng hòa John McCain (Arizona), Chủ tịch Ủy ban Quân viện Thượng nghị Viện và thành viên cao cấp của Ủy ban, Nghị sỹ Dân chủ Jack Reed (Rhode Island) và 2 Nghĩ sỹ Cộng Hòa Joni Earnst (Iowa) và Dan Sullivan (Alska) đã gặp Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 27/5/2015.
Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam,) viết tại cuộc họp này: “Thượng Nghị sỹ John McCain và Đoàn bày tỏ quan tâm đặc biệt đến vấn đề an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở khu vực nói chung và những diễn biến gần đây ở Biển Đông nói riêng; khẳng định ủng hộ việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp ngoại giao, hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.”
Về phía ông Trọng, VOV cho biết: “Về tình hình Biển Đông, Tổng Bí thư khẳng định lập trường kiên định của Việt Nam bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, trước hết bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước về Luật biển năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), tiến tới Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên ở biển Đông (COC); phản đối mọi hành vi coi thường luật pháp quốc tế, phá vỡ hiện trạng, đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực.”
DOC hay Declaration of Conduct là Thỏa hiệp không có tính ràng buộc pháp lý giữa Trung Quốc với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ký tại Nam Vang (Kampuchia) năm 2002. Trung Quốc đã công khai vi phạn để dành phần thắng về cho mình ở Biển Đông. Và từ năm 2012, ASEAN và Trung Quốc đã họp nhiều lần để thảo luận đi đến ký kết Thỏa hiệp COC (Code of Conduct) có ràng buộc pháp lý, nước nào vi phạm sẽ bị trừng phạt. Nhưng Trung Quốc đã tìm mọi lý do để trì hoãn, kể cả thi hành mánh khóe gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN và lập luận rằng tranh chấp trên Biển Đông là chuyện riêng giữa Trung Quốc với các nước có tranh chấp mà không liên hệ đến cả tập thể 10 nước ASEAN, hay các nước ngoài khu vực, ám chỉ Hoa Kỳ.
Chiến tranh - Nguyễn Phú Trọng
Hỏi: Thưa Giáo sư, phần trên ông có nói đến tình hình "căng thẳng rất khó chịu" do những hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc ở Biển Đông và vị thế khó xử của Việt Nam và Hoa Kỳ, vậy ông có lo ngại sẽ xẩy một cuộc chiến tranh không?"
Đáp: “Những đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây cất một cách gấp rút ở cách bờ biển TQ 600 hải lý (trên 1,000 cây số), nằm giữa Việt Nam, Phi Luật Tân, Brunei, Mã Lai Á, và Nam Dương. Hoa Kỳ quan tâm đến việc Trung Quốc xây dựng căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo ở đây sẽ tăng cường mạnh mẽ khả năng của Trung Quốc kiểm soát và chế ngự một tuyến giao thông quan trọng ngay giữa Biển Đông, đe dọa trầm trọng tư do hang hải và quyền lợi của Mỹ.
Hơn nữa, theo luật quốc tế, không nước nào có chủ quyền trên đá chìm khi thủy triều lên, nếu chúng nằm ngoài lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế. Những đảo nhân tạo mà TQ đang xây nằm rất xa ngoài vùng đặc quyền kinh tế của TQ. Khi biến đá ngầm thành đảo, TQ đã thay đổi nguyên trạng một cách trầm trọng, áp đặt chủ quyền và nới rộng vùng kiểm soát của mình trên vùng biển tranh chấp. Nếu không bị chặn lại, TQ có thể dần dần biến toàn thể vùng biển ở trong khu vực đương lưỡi bò thành vùng biển của riêng mình.
Vì thế, Mỹ phản ứng bằng cách nêu rõ quan tâm của mình với TQ trong chuyến thăm TQ của Ngoại trương John Kerry, đồng thời cho phi cơ tuần thám hải quân P-8A Poseidon bay qua đảo nhân tạo của TQ, bất kể cảnh báo của TQ, để chứng tỏ Mỹ không công nhận chủ quyền của TQ trên những đảo ấy. Mặt khác, Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ còn tuyên bố Mỹ dự tính gửi tầu hải quân đi sâu vào trong vùng 12 hải lý quanh đảo để xác định lập trường của mình.
Trước thái độ ấy, TQ đã chính thức đưa văn thư phản đối đòi Mỹ phải tôn trọng chủ quyền của TQ và tránh những hành động “khiêu khích.” Ngoại trương TQ Vương Nghị còn xác quyết “Quyết tâm bảo vệ chủ quyền và vẹn toàn lãnh thổ của TQ vững như đá và không thể lay chuyển.”
Hai lập trường đối nghịch này khi còn trong trạng thái các tuyên bố và cảnh báo cũng đủ gây căng thẳng, nhưng nếu được thực hiên bằng hành động nó sẽ tạo ra thế đối đầu quân sự ở trên không cũng như trên biển với rất nhiều rủi ro đi quá đà và dẫn đến xung đột. Chính vì thê mà Cựu Phó Giám Đốc Trung Ương Tinh Báo Mỹ, ông Mike Morell, cho rằng tình trạng đôi đầu này rất nguy hiểm và có thể dẫn đến chiến tranh Trung-Mỹ trong tương lai.
Hỏi: Cũng nhân tiện nói về các cuộc thăm nhau hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, tôi muốn biết sự thẩm định của Giáo sư về chuyến thăm lịch sử lần đầu tiên đến Hoa Kỳ sắp tới của Tổng Bí thư CSVN Nguyễn Phú Trọng có thể nào được coi như “một canh bạc ngoại giao và an ninh chính trị” của đảng CSVN, sau khi ông Trọng đã gặp Chủ tịch Nhà nước-Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình hồi đầu tháng 4 vừa qua hay không?
Đáp: Chuyến thăm Mỹ sắp tới của Tổng Bí Thư Đảng CSVN có tính cách lịch sử vì đây là lần đầu tiên một TBT ĐCSVN, công du Mỹ. Nó càng có tính cách lịch sử hơn nếu ông Trọng được ông Obama tiếp như lời nói úp mở của Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ hôm 19/5 tại Hà Nội rằng “TT Obama mong được tiếp TBT Trọng” ở Washington, DC, vì đây sẽ là lần đầu tiên người lãnh đạo quốc gia Mỹ tiếp người lãnh đạo một đảng của nước nhỏ, một biệt lệ trong nghi lễ ngoại giao của Mỹ.
Trong bối cảnh hiện nay tại Biển Đông và những cuộc viếng thăm Việt Nam dồn dập của các nhà lãnh đạo quốc phòng Mỹ --cả hành pháp lẫn lập pháp-- chuyến đi của ông Trọng sẽ bị coi là một thất bại nếu ông không tạo được bước tiến quyết liệt trong quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ.
Nếu ông thành công, thì việc mà Việt Nam rất mong muốn là chuyến công du Việt Nam của TT Obama cuối năm nay sẽ dễ thành sự thật.
TPP và Nhân quyền - Công đoàn
Hỏi: Thưa Giáo sư, như ông biết là 12 nước, kể cả Hoa Kỳ và Việt Nam, đang cố gắng kết thúc đàm phán về Hiệp ước Thương mại xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TPP), nhưng có một số Dân biểu và Nghị sỹ trong Quốc hội Mỹ cho biết họ chưa sẵn sàng bỏ phiếu tán thành chừng nào Việt Nam còn tiếp tục đàn áp phi pháp người dân, chưa thả tù chính trị và chưa đồng ý cho phép công nhân được thành lập nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi.
Ông có nghĩ rằng Hiệp ước TPP đang gặp những khó khăn chính trị khó vượt qua giữa Mỹ và Việt Nam không?
Đáp: Tình trạng nhân quyền ở VN là một nguyên nhân chống đối, nhưng nguyên nhân ấy không quan trọng bằng quyền lơi kinh tế của nghiệp đoàn lao động, một nguồn phiếu và tài chính quan trọng của các chính trị gia thuộc đảng Dân chủ.
TPP không phải chỉ là một vấn đề thuần kinh tế mà nó có tầm quan trọng chiến lược lơn đối với Mỹ. Thất bại trong việc hoàn tất hiệp ước TPP sẽ là một thất bại của nước Mỹ trong cuộc tranh giành ảnh hưởng kinh tế và chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc ở Á châu-Thái binh dương với hậu quả biến Mỹ thành một cường quốc hạng hai ở một khu vực có tầm quan trọng kinh tế và chiến lược bậc nhất thế giới hiện nay và trong tương lai.
Tôi nghĩ rằng cuối cùng các chính trị gia Mỹ dù thiển cận, ích kỷ, và chịu áp lực của nhóm lơi ích đến đâu cũng nhận ra đâu là quyền lợi quốc gia quan trọng của nước Mỹ mà bỏ phiếu thông qua thủ tục phê chuẩn nhanh TPA (Trade Promotion Authority) và hiệp ước TPP.
Hỏi: Câu hỏi cuối cùng của chúng tôi với Giáo sư là vào tháng 9 tới đây, Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ thăm Hoa Kỳ, vậy ông kỳ vọng gì về chuyến đi này trong bối cảnh Hoa Kỳ đã công khai khó chịu trước kế hoạch trang bị quân sự mới và bành trướng Quốc phòng của Bắc Kinh ở Á Châu và Thái Bình Dương?
Đáp: Nếu không có biến cố gì làm chuyến đi bị hủy hay trì hoãn, TQ sẽ tìm cách xoa dịu và ru ngủ Mỹ và hai bên sẽ tìm cách đạt được một số thỏa thuận trong khung cảnh xây dựng một “quan hệ đại cường kiểu mới.”
Quốc hội CSVN sẽ họp phiên đặc biệt vào ngày 5/6/2015 để nghe Chính phủ tường trình về tình hình Biển Đông. Tuy nhiên, nếu chỉ nói để cho Quốc hội nghe mà không có thảo luận và không công khai thì có họp cũng như không.
Chuyện họp kín về tình hình Biển Đông đã xảy ra vài lần tại Quốc hội trong quá khứ, cũng như chuyện Quốc hội không dám đưa ra Nghị quyết lên án Trung Quốc khi nước này đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam tháng 5/2014 đã gây bất bình trong số đông Đại biểu Quốc hội và người dân.
Vậy liệu người dân có nên kỳ vọng gì vào phiên họp ngày 5/6 sắp tới của Quốc hội hay cứ tiếp tục cắn răng mà nghe Bộ Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói rằng: “Trung Quốc đang tiến hành xây dựng đảo nhân tạo cần thiết trong khu vực chủ quyền và điều này không gây ảnh hưởng đến ai… Chúng tôi không giống như một số quốc gia khác tiến hành xây dựng trái phép trong khu vực của người khác. Chúng tôi chỉ xây dựng đảo ngay trên sân nhà của chúng tôi”?
(Trích phát biểu ngày 08/03/1015 tại Bắc Kinh)
Vào cuộc bằng nước bọt
Chính phủ CSVN đã không có “ăn miếng trả miếng” với tuyên bố của Vương Nghị mà để cho một số báo và cá nhân lên tiếng chống lại quan điểm tiếm nhận chủ quyền trắng trợn của họ Vương.
Mãi cho đến chiều ngày 27/5/ (2015), trong cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ, mới thấy Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn lên tiếng xác nhận: “Hiện nay Trung Quốc đang công khai và ráo riết triển khai các hoạt động lấn biển, thi công các công trình với quy mô rất lớn trên tất cả các cấu trúc mà Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp ở Trường Sa của Việt Nam.”
Theo ông Tuấn: “Đặc biệt hiện nay các hoạt động này diễn ra nhiều tại 5 địa điểm, cụ thể là Gaven khoảng 15 héc-ta, Gạc Ma khoảng 13,2 héc-ta, Châu Viên khoảng 24 héc-ta; Huy Gơ khoảng 9,2 héc-ta và lớn nhất là chữ Thập khoảng 180 héc-ta.
“Tất cả các đoàn đi Trường Sa thì đều phát hiện điều đó. Ba cấu trúc mà Trung Quốc xây dựng thành đảo là Gaven, Huy Gơ và Gạc Ma. Hiện nay hầu hết ở các điểm đó hầu hết họ tạo các luồng lạch để cho tàu đi vào.
Ở một số đảo họ xây công trình cao tầng, thí dụ như ở Huy Gơ và Gạc Ma có công trình cao bảy, tám tầng. Ngoài ra, họ xây dựng các công trình cao như đèn biển hoặc trung tâm hướng dẫn bay”.
Những tiết lộ của ông Tuấn không mới vì đã được một số báo chuyên về Quốc phòng của nước ngoài tiết lộ rồi.
Có khác chăng là Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam đã vào cuộc lên án việc làm của Trung Quốc mà đảng và nhà nước CSVN từ lâu vẫn ca ngợi “vừa là đồng chí vừa là anh em”, hay “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”!
Thứ trưởng Tuấn nói: “Các hành vi xâm lấn trái phép biển đảo của Việt Nam do phía Trung Quốc thực hiện đã diễn ra trong nhiều năm nay. Thứ trưởng Trương Minh Tuấn khắng định: “Việc làm của Trung Quốc là bất chấp phản ứng của ta và cộng đồng quốc tế.
Có thể nói tình hình Biển Đông chưa có xảy ra đụng độ, nhưng việc làm đó là một bước đi chiến lược của Trung Quốc để nhằm hiện thực hóa yêu sách đường lưỡi bò, không loại trừ khống chế và kiểm soát toàn bộ phía Nam của Biển Đông. Thí dụ như vừa rồi họ ra lệnh cấm đánh bắt cá và cũng không loại trừ trường hợp họ tuyên bố vùng nhận dạng phòng không”. (Trích báo Giáo dục Việt Nam, 27/05/2015)
Vậy Việt Nam sẽ làm gì để lấy lại niềm tin trong dân và sự tin cậy của các nước trong khu vực hay Hà Nội cứ tiếp tục “nói cho qua cầu” với hy vọng áp lực của Quốc tế sẽ ngăn chận các bước đi tiếp theo của Bắc Kinh?
Nên biết Trung Cộng đã chiếm Hoàng Sa của Việt Nam từ năm 1974 và đánh chiếm 8 bãi đã ở Trường Sa từ năm 1988 mà đảng CSVN chưa làm gì để chiếm lại hay ít ra ngăn chận Trung Cộng không thể biến bãi thành đảo như đang diễn ra ở vùng Trường Sa.
Vì lãnh đạo Việt Nam đã không làm gì cả nên biển đảo Việt Nam cứ mất dần vào tay Trung Quốc như ai cũng đã thấy.
Bằng chứng, như chuyên gia Nguyễn Mạnh Hùng cảnh giác về việc Trung Quốc hình thành các đảo nhân tạo “không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ", mà Thứ trưởng Trương Minh Tuấn vẫn cứ đề nghị hoang tưởng: “Trong thời gian tới chúng tôi rất mong muốn các cơ quan báo chí tiếp tục tuyên truyền về chiến lược biển của Việt Nam đến năm 2020, tuyên truyền về mô hình phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền trên biển.”
Ông nói: “Tôi rất mong các cơ quan báo chí có những tin bài sắc bén, có lý lẽ và thuyết phục để đấu tranh với Trung Quốc trước những hoạt động lấn biển vi phạm DOC và Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982”. (trích báo Giáo dục Việt Nam, 27/05/2015)
Đề nghị của ông Tuấn sẽ như khua trống thùng rỗng chỉ đủ nghe cho Bộ Thông tin và Truyền Thông và Ban Tuyên giáo đảng. Nhà nước “bành trướng và bá quyền” Bắc Kinh ở cách xa thủ đô Hà Nội tới 2,322 cây số, và phải mất 4 giờ bay thẳng mới tới nơi thì làm sao Lãnh tụ Tập Cận Bình nghe thấu?
Rõ là chuyện chỉ biết “nói cho xong chuyện” mà quên rằng kẻ thù đã đến sau lưng. -/-
28/05/2015
|
|
|
Post by BTN on May 29, 2015 8:56:40 GMT -6
Khi lãnh đạo tôn giáo tôn thờ tội ác
Trần Trung Đạo -
Nhìn bức tượng Hồ Chí Minh ngồi chễm chệ giữa chánh điện, xem buổi lễ mừng sinh nhật của họ Hồ cùng lúc với Đức Thế Tôn thị hiện, đọc những lời nịnh bợ đảng CS một cách trơ trẽn của các lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”, một người Phật tử có chút nhận thức nào cũng không khỏi lấy làm hổ thẹn trước tình trạng tha hóa trầm trọng của hàng ngũ lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”.
Đọc lại lịch sử đạo Phật sau khi Đức Bổn Sư nhập diệt để lần nữa nhận ra “Phật Giáo Việt Nam” đang suy tàn tương tự.
Vườn Lộc Uyển (Sarnath) là một trong những Phật tích thiêng liêng nhất của đạo Phật vì đó là nơi Đức Bổn Sư đã giảng những bài pháp đầu tiên dẫn tới thời cực thịnh của Phật Giáo Ấn Độ cho đến thế kỷ thứ bảy, nhưng sau đó Phật Giáo Ấn Độ suy tàn. Ngày nay, di tích Vườn Lộc Uyển chỉ là những đống gạch vụn trong ý nghĩa tinh thần lẫn vật chất. Hàng loạt lý do dẫn tới sự suy tàn của Phật Giáo trong đó có vai trò của đạo Bà La Môn, sự tàn sát của đạo quân Hồi Giáo nhưng một trong những lý do mà chính Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều học giả Phật Giáo đồng ý đó là sự thoái hóa và biến chất của hàng tăng sĩ Phật Giáo thời đó.
Trong tiểu luận Vì sao Phật Giáo suy tàn tại Ấn Độ của nhà nghiên cứu Phật Giáo D.C. Ahir (1928-2012) đã viết: “Chúng ta phải thừa nhận rằng chính những tín đồ Phật Giáo lãnh phần trách nhiệm lớn cho số phận đáng buồn của tôn giáo của họ….Ðức Phật là một vị thầy tôn giáo đầu tiên ở Ấn Ðộ, hay nói đúng hơn là toàn thế giới, cổ vũ những đệ tử của mình đi và đi khắp nơi vì hạnh phúc và lợi ích của nhiều người…Nhưng bất hạnh thay, các tăng sĩ về sau đã không giữ những tiêu chuẩn dành cho họ. Khi các tu viện trở nên giàu có, thì hoạt động chính của họ được coi là đào sâu việc nghiên cứu từ chương thay vì truyền bá Giáo Pháp, tăng sĩ đánh mất sự giao hảo gần gũi với quần chúng, và tương quan giữa tăng sĩ và cư sĩ bị thụt lùi. Các vị Tỳ Kheo trở nên xao lãng và thụ động đối với những mục đích thực tiễn. Ðiều nầy làm cho Phật Giáo suy yếu.”
Đức Đại Lạt Ma, qua tác phẩm Câu chuyện Tây Tạng: Những cuộc trò chuyện với Đức Dalai Lama (The Story of Tibet: Conversations with the Dalai Lama) của Thomas C. Laird, cũng đã giải thích một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự suy tàn của Phật Giáo là từ các lý do nội tại Phật Giáo: “Tôi nghĩ rằng trong trường hợp Tây Tạng cũng thế, y hệt như trường hợp Ấn Độ, có xu hướng xem xét những nguyên nhân bên ngoài. Khuynh hướng xem xét trước tiên những tác động ngoại lai đã mọc rễ sâu trong đầu con người và khó loại bỏ. Chúng ta chẳng thể làm được gì nhiều về những người khác, về những tác động ngoại lai. Nhưng chính chúng ta, nếu chúng ta không tu hành tốt, không giữ gìn giới luật, thì tôn giáo chúng ta trở thành giả dối. Đây là sự thật. Vậy đây đúng là lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ và Tây Tạng”.
Trong tam bảo Phật, Pháp, Tăng, Tăng là những vị mang giáo pháp của Đức Phật đến với con người và do đó Tăng sĩ cũng là những vị trực tiếp có ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đối với tầng lớp cư sĩ Phật Tử. Trong suốt bốn mươi lăm năm gieo rắc hạt giống từ bi, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni dành chuyến hoằng pháp cuối cùng từ thành Vương Xá đến xứ Kusinara để nhắc nhở ba điểm bất di bất dịch của một tu sĩ Phật Giáo: Giới, Định, Huệ. Đi tu để cầu giải thoát cho mình và cứu độ cho đời. Người Phật tử kính trọng tăng không phải chỉ vì chiếc y các thầy đắp mà còn vì hạnh nguyện cao cả các thầy đã chọn.
Từ khi được đảng CSVN thành lập ngày 7 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ Hà Nội và được xếp vào một trong 37 thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” chỉ là một đoàn thể xã hội giống như các đoàn thể khác trong mặt trận như Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Châm cứu Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam, Hội Làm vườn Việt Nam, Hội kế hoạch hoá gia đình Việt nam v.v.. Một tôn giáo có lịch sử hai ngàn năm truyền thừa và đã đóng góp một phần không nhỏ cho mảnh đất hình chữ S này còn tồn tại trên bản đồ thế giới, được đặt vào vị trí ngang hàng với một hội làm vườn, cắt cỏ nhưng không một lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” nào phàn nàn hay thắc mắc.
“Huân chương Hồ Chí Minh”
Sự tuân phục, phụ thuộc của hàng ngũ lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” vào đảng CS trầm trọng đến mức nhiều văn kiện từ một bài văn, bài báo bình thường cho đến đạo từ quan trọng nhân đại lễ Phật Đản của Pháp Chủ tối cao cũng không quên dành một phần lớn để ca ngợi công ơn cao dày của đảng CS. Đạo từ của Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” công bố nhân mùa Phật Đản Phật Lịch 2556, tháng 5 năm 2012 là một bằng chứng.
Thông điệp Phật Đản lẽ ra là một dịp để nhắc đến công ơn của Đức Phật đã thị hiện trên thế gian để cứu vớt chúng sinh bị đắm chìm trong ô trược, soi rọi ánh sáng từ bi trí tuệ vào nhận thức con người đang lạc loài trong tăm tối vô minh, khơi mạch suối tình thương chảy vào thung lũng hận thù giết chóc. Nhưng không, Đạo từ của Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ, vỏn vẹn chỉ một trang nhưng phân đoạn dài nhất được dành để ghi ơn Đảng Cộng Sản Việt Nam trao tặng cho giáo hội “huân chương Hồ Chí Minh”, các huân chương và bằng khen khác:
“…Trong suốt 30 năm xây dựng và phát triển, Tăng Ni, Cư sỹ, Phật tử các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu Phật sự trên tất cả các lĩnh vực Đạo pháp và Dân tộc cũng như quan hệ đối ngoại Phật sự quốc tế; được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cộng đồng xã hội đánh giá cao vị thế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhân dịp này, Đảng và Nhà nước đã quyết định trao tặng Huân Chương Hồ Chí Minh lần thứ hai cho Giáo hội, cùng một số chư Tôn đức, Cư sỹ, Phật tử có nhiều thành tựu Phật sự ích đời lợi đạo đã được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Huân chương Đại đoàn kết Dân tộc, Bằng khen của Thủ Tướng Chính Phủ và Chính quyền các cấp. Đây là minh chứng ghi nhận những đóng góp to lớn của giới Tăng Ni, Cư sỹ, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam đối với sự nghiệp Cách mạng của Đảng và của Dân tộc.”
Huân chương để làm gì?
Bằng khen để làm gì?
Là tu sĩ, có gì cao quý hơn vinh dự được mang họ Thích, được đắp y truyền thừa của Phật, được nương tựa vào Chánh Pháp. Danh lợi, quyền lực là một trong những giới cấm tối quan trọng của một bậc xuất gia.
Điều mỉa mai hơn, đạo từ nhằm đề cao danh lợi, đánh bóng quyền lực của một đảng vô thần lại được công bố đúng trong ngày một bậc thánh nhân ra đời chỉ để rồi 29 năm sau từ bỏ mọi quyền uy bậc nhất dành cho ngài, rời cung vàng điện ngọc, cắt mái tóc Đông cung Thái tử trả lại vua cha, khoác lên người một mảnh áo vàng và đi bằng đôi chân đất vào lòng thế gian đau khổ. Hai ngàn năm trăm năm từ ngày đại nguyện đó, trên đất nước Việt Nam có những kẻ tự nhận là con Phật, chọn ngày sinh của ngài để vinh danh, ca ngợi tầng lớp cai trị đang chà đạp lên những quyền căn bản của con người mà đức Phật đã dành 45 năm để hoằng dương giá trị. Một câu cũng đảng, hai câu cũng đảng, không một dòng nào trong đạo từ nhắc đến ý nghĩa sự ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa và bảy bước đi trên bảy đoá sen màu nhiệm.
Sự suy thoái của Phật Giáo từ cuối thời nhà Trần như cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện Hoa viết trong Lịch sử Phật Giáo Việt Nam không chỉ là một bằng chứng mà còn là bài học:
“Thế mà Ðạo Phật trong đời nhà Trần, chỉ thịnh phát trong khoảng 50 năm đầu, rồi dừng lại và thoái bộ mãi. Vì hai lý do làm cho Ðạo Phật không thể tiến phát được là ở bên ngoài, sự cạnh tranh ráo riết, có nhiều khi là cả một sự đàn áp của Khổng-Giáo; và ở bên trong, giáo lý Ðạo Phật dần dần bị xen lẫn mê tín, dị đoan của những tà giáo, ngoại đạo mà các vua chúa trong đời nhà Trần rất sùng mộ.”
Hôm nay, một lần nữa, các lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” thỏa hiệp với giới cai trị và biến đạo Phật thành một loại tà đạo mê tín dị đoan.
Tượng Hồ Chính Minh trên chánh điện Phật
Đặc tính tà đạo thể hiện qua cách chư tăng giáo phẩm đắp đại y và lạy trước tượng Hồ Chí Minh, một kẻ can tội diệt chủng qua cái chết của hàng ngàn người dân vô tội trong Cải cách Ruộng đất vô cùng bất nhân ở miền Bắc, cho cái chết thảm thương của nhiều ngàn dân Huế trong Tết Mậu Thân và cho sinh mạng của ba triệu người Việt trong suốt hai mươi mốt năm chiến tranh cưỡng chiếm miền Nam bằng bạo lực.
Về mặt giới luật, lạy một người chết, dù là ảnh, tượng, hay xác cũng phạm giới. Một tăng sĩ lạy cha mẹ ba lạy để đền đáp ơn sinh thành dưỡng dục khi xin phép xuất gia. Sau khi được cha mẹ đồng ý và đã làm lễ thí phát, tăng sĩ Phật Giáo không lạy người chết nữa dù người đó là ai. Những giới luật căn bản như thế, các tăng sĩ Phật Giáo chắc chắn đã học qua và được dạy phải sống đúng với giới luật. Các lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam dĩ nhiên biết rõ nhưng miếng bả danh vọng, lòng tham lam quyền lực đã cuốn hút họ ngày càng lún sâu vào con đường tha hóa trần tục.
Xây tượng lớn để làm gì?
Và mới đây, để phụ họa với phong trào xây tượng các lãnh tụ CSVN, các lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” cũng cho xây tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông hết sức tốn kém và hãnh diện là tượng đồng Phật Hoàng lớn nhất Việt Nam.
Xây chùa lớn, tượng đẹp để làm gì trong khi cả một dân tộc đang trầm luân trong độc tài, nghèo nàn, lạc hậu?
Trong thời đại Lý Trần, thời đại vàng son của Phật giáo Việt Nam, nhiều nhà sư đã tham gia trực tiếp vào việc trị nước chăn dân và hầu hết vua chúa không những đều là Phật tử mà còn là tổ của các Thiền tông lớn, nhưng không phải vì thế mà Phật giáo trở thành lực lượng thống trị xã hội. Trái lại, các tôn giáo khác tại Việt Nam vẫn tồn tại và có ảnh hưởng quan trọng trong mọi sinh hoạt văn hóa xã hội, thương yêu và gắn bó với nhau.
Các nhà vua thời Lý, thời Trần với quyền hạn tuyệt đối, nhưng thay vì xây dựng những đền chùa nguy nga bằng mồ hôi nước mắt của nhân dân, các ngài đã để lại cho chúng ta ngày ngay những tổ đình uy nghiêm, tôn kính nhưng với một kiến trúc vô cùng khiêm nhượng. Tại sao? Đơn giản bởi vì các ngài là những vị vua nhân từ, lãnh đạo một đất nước vừa nghèo khó, vừa phải lo chống đỡ các triều đại Bắc phương không ngừng xâm lấn. Các ngài đã biết đặt sự an lạc của dân tộc lên trên sự hưng thịnh riêng của tôn giáo mình. Các lãnh đạo Phật Giáo ngày nay đã xa rời tinh thần bao dung, từ bi và đơn giản của đức vua Trần Nhân Tông.
“Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” là gì?
Phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” không đại diện cho truyền thống của một tôn giáo đã gắn liền với dòng sinh mệnh Việt Nam mà chỉ nói lên sự sợ hãi, phụ thuộc, nô lệ vào đảng CS. Đảng CS và dân tộc Việt Nam không đồng hành về tương lai mà cũng chưa hề đồng hành trong quá khứ.
Nhân dân Việt Nam muốn gì?
Nhân dân Việt Nam muốn có một cuộc sống an bình thịnh vượng trong một cơ chế chính trị dân chủ pháp trị và phát triển toàn diện phù hợp với thời đại văn minh dân chủ. Chính quyền trong cơ chế chính trị dân chủ có nhiệm vụ ngăn chận mọi hình thái độc quyền, bảo đảm công bằng xã hội và bình đẳng cơ hội cho mọi thành phần dân tộc và mọi miền đất nước, tạo dựng môi trường, điều kiện và cơ hội đồng đều để mỗi người phát huy khả năng và sở thích đặc thù, đóng góp vào việc xây dựng nền văn minh mới cho toàn dân và cho nhân loại.
Đảng CS muốn gì?
Sau hơn 80 năm qua nhiều lần thay màu đổi dạng nhưng Đảng vẫn duy trì một mục đích áp đặt quyền cai trị tuyệt đối lên toàn dân tộc Việt Nam, sống giàu sang phú quý trên mồ hôi nước mắt và xương máu nhân dân, kiểm soát mọi sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần của đời sống con người, áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt một cách không nương tay các hành vi chống đối, mọi tiếng nói bất đồng phát sinh từ trong lòng dân tộc. Hãy xem những hình ảnh nội thất của người đốn củi Nông Đức Mạnh và của binh nhì Lê Khả Phiêu để thấy sự xa cách giữa đời sống của hai Tổng bí thư CS và của tuyệt đại đa số còn lại của dân tộc Việt Nam. Chúng không có một chút xót thương cảm thông, chia sẻ nào dành cho đại đa số người dân đang chịu đựng trong nghèo nàn thiếu thốn. A dua theo chúng, cúi đầu tuân phục chúng là tòng phạm bán nước.
Phân tích để thấy, dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa Cộng Sản chẳng những không chia sẻ một mục đích cuối cùng chung mà còn mâu thuẫn đối kháng ngay từ trong căn bản. Do đó, về lý luận cũng như về thực tế, không bao giờ có chuyện “đảng song hành cùng dân tộc” như các lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” lập đi lập lại khẩu hiệu “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội” tuyên truyền mị dân của đảng CS.
Lịch sử đạo Phật đã cho thấy, trong thời đại nào và ở đâu, các hàng tăng sĩ lãnh đạo Phật Giáo thỏa hiệp với tầng lớp thống trị, bị lôi cuốn vào vòng lợi danh và quyền lực, bàng quan trước nỗi khổ đau bất hạnh của con người, ở đó Phật Giáo không còn là đại diện cho đạo từ bi của Đức Phật. Kẻ sát nhân chỉ giết một người hay vài người, nhưng một khi các lãnh đạo tôn giáo, trong trường hợp này là “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”, bị tha hóa, toa rập với đảng CS vô thần để hủy diệt đời sống tinh thần của nhiều triệu người, những lãnh đạo Phật Giáo đó có trọng tội đối với dân tộc không khác gì lãnh đạo đảng CSVN.
Trần Trung Đạo
|
|
|
Post by BTN on Jun 1, 2015 10:55:09 GMT -6
**** Nếu Mỹ mà cũng làm giống như nước Pháp. Thì sẽ còn bao nhiêu người Việt Nam được sống ở đất nước này. ****
Lời người chuyển bài:- Kính chuyển đến Qúy Vị "bản tin của báo Pháp", tuy đã cũ, nhưng vẫn ảnh hưởng đến người Tỵ Nạn csVN và đây là bài học cho ai nhẹ dạ nghe lời dụ dỗ của csVN, khi đã vào tròng, chúng sẽ vấp vào sót rạc. Kính,Ty Nguyẽn -/-
Việt kiều ỡ Pháp mất quyền tỵ nạn vì đã "thất hứa"với chính phủ Pháp trỡ về Việt Nam!
Ông Nguyễn Văn Tuyền, 59 tuổi đến định cư tại Pháp năm 1980. Với lá đơn thống thiết như sau: “Nếu tôi ở lại, nhà cầm quyền CSVN sẽ bắt giam, đánh đập và bỏ tù không có ngày ra. Vì lý do nhân đạo, tôi trân trọng thỉnh cầu nước Pháp, vui lòng chấp thuận cho tôi được tỵ nạn chính trị, sống tạm dung trên mảnh đất tự do nầy, và tôi chỉ trở về quê cũ khi nào quê hương tôi không còn chế độ độc tài Cộng Sản.” Nhưng ông Tuyền đã phản bội tư cách tỵ nạn của ông đến 7 lần từ năm 1995 đến năm 2000. (Theo tài liệu của OFPRA = Office Francais de Protection des Réfugiés et Apatride - Cơ quan Bảo vệ Người Tỵ nạn và Vô Tổ quốc)
Ngày 27-6-2000, ông Tuyền và 544 Việt kiều Pháp bị OFPRA gởi thơ thông báo rút lại thẻ tỵ nạn, với lý do trở về quê cũ khi còn chế độ độc tài Cộng Sản.
“Chiếu theo điều 1, khoản 2A của Hiệp Định Genève ngày 28-7-1951, chúng tôi thu hồi thẻ tỵ nạn. Đồng thời cũng trình lên Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, kể từ nay, OFPRA không còn chịu trách nhiệm với ông, về tình trạng cư trú, xin việc làm, hưởng trợ cấp xã hội theo diện người tỵ nạn chính trị”.
Được biết, từ năm 1988 đến năm 2000, tổng số người Việt ở Pháp bị truất bỏ quyền tỵ nạn và quyền lợi, với con số là 22,417.
Bài viết ghi như sau: “Chính phủ Việt Cộng qua các đại sứ từ Võ Văn Sung, Mai Văn Bộ, Trịnh Ngọc Thái đến Nguyễn Chiến Thắng đã coi người Việt Nam là thành phần cực kỳ phản động, cần phải triệt hạ, hoặc áp dụng chính sách gậy ông đập lưng ông. Đó là, dễ giãi trong việc cấp chiếu khán cho họ, để họ bị OFPRA cắt quyền tỵ nạn và trợ cấp xã hội. Sau khi cấp chiếu khán, tòa đại sứ thông báo danh sách cho Bộ Nội vụ Pháp biết tên họ của những người vi phạm luật tỵ nạn. Một khi mất thẻ tỵ nạn, thì mất luôn thẻ thường trú (Carte de Séjour) nên không xin được việc làm. Trường hợp đó, muốn sống ở Pháp trên 3 năm, thì phải có Passport của chính phủ CSVN, để trở thành công dân Việt Cộng cho đến mãn kiếp. Cái thâm độc của VC là như thế.
(Bài viết của ký giả Xuân Mai trên báo áp phê số 4 tại Paris).
Ý KIẾN ĐỘC GIẢ:-
Những tin nầy còn ích lợi cho người Việt hải ngoại gấp trăm lần những bản xin chữ ký để xin VC cho lại nhà cửa bị tịch thu, hoặc phản đối chính phủ Canada về đạo luật của Ngô Thanh Hải đệ trình. Chúng tôi cũng rất lẫy làm lạ là vì sao việc nầy chỉ có chính phủ Pháp thi hành? Do đó, có 3 cách suy nghĩ dưới đây và xin quý vị trí thức giải đáp giúp cho:
1) Hoặc là trên các nước cho người Việt tỵ nạn CS, chỉ có chính phủ Pháp áp dụng luật lệ LHQ khi chấp nhận người tỵ nạn chịnh trị: "Người Việt tỵ nạn chính trị không có quyền trở lại Việt nam khi quốc gia của họ còn bị áp đặt dưới thể chế VC".
2) Hoặc là chỉ có những người lãnh đạo các Hội đoàn người Việt tỵ nạn chính trị tại Pháp đã thấy rõ âm mưu độc địa VC cố ý chia rẽ CĐNVTN, nên âm thầm khuyến cáo chính quyền bản xứ và đã được chính phủ Pháp lắng nghe.
3) Hoặc là trong hơn 40 năm qua các vị trí thức, các vị lãnh đạo các Hội đoàn NVTNCS tại hải ngoại, chẳng có ai nghĩ gì về khối người Việt mang danh nghĩa tỵ nạn CS đã ra vào VN như đi chợ và đã làm thui chột danh nghĩa CĐNVTN.Vì sao qúy vị không đề cập sự kiện này lên chính quyền mà chỉ cứ xin chữ ký cho các Thỉnh Nguyện Thư gửi chính quyền VC, một thể chế mà người Việt tỵ nạn cộng sản chưa bao giờ công khai chấp nhận.
Viết lên ý kiến nầy không ngoài mục đích xin quý Vị đương nhiệm trong các CĐNV tại Hải ngoại vân động thành hình một tổ chức Liên CĐNVTNCS khắp thế giới ký Kháng Thư gửi lên các chính quyền đã chấp nhận cho người Việt tỵ nạn CS, hầu phá tan âm mưu đánh phá của VC.
Lê Hùng Bruxelles.
|
|
|
Post by BTN on Jun 1, 2015 11:10:52 GMT -6
Thế Mà Bảo Là Hòa Hợp Hòa Giải Sao?
Bộ chính trị đảng CSVN vừa ban hành chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19-5-2015 gồm 10 điểm để vực dậy “con bạch tuộc 36 cái vòi” xì hơi hết xí quách (Nghị quyết số 36-NQ/TW của bộ chính trị khóa IX).
Cali Today News - Con bạch tuộc này hơn 10 năm qua coi bộ “làm ăn” không khấm khá dẫu được đảng chăm lo bồi dưỡng tiêu tốn biết bao nhiêu là tiền bạc. Mỗi lần nó lén lút vượt trùng dương len lỏi vươn vòi dụ khị đến đâu là bị bà con người Việt hải ngoại chặt phăng ngay đến đó. Thành tích thu về quá kém cỏi, không đạt chỉ tiêu định mức cấp trên giao, nên kỳ này đảng phải “lên dây cót” cho nó bằng 10 mũi thuốc bổ cả trong lẫn ngoài, chắc để cố gắng triệt hạ cho bằng được cái thành trì chống cộng quá kiên cố trong vòng 5 năm tới, hầu tâng công cho kịp ngày sáp nhập với thiên triều. Xét trong 10 điểm công tác của chỉ thị 45-CT/TW ngoài chuyện xâm nhập, lũng đoạn cộng đồng người Việt tị nạn hải ngoại bằng mọi cách còn lại là để nhắm vào việc dụ dỗ người Việt tị nạn hải ngoại hãy chịu hòa hợp hòa giải, về nước hợp tác đầu tư, làm ăn buôn bán, xóa bỏ hận thù, quên đi quá khứ, hướng tới tương lai… Nhưng đảng CSVN quên hay cố tình quên một điều là không chỉ người Việt tị nạn hải ngoại mà tất cả người dân trong và ngoài nước đều đã quá rành câu nói “Đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm”. Bao nhiêu nghị quyết, bao nhiêu chỉ thị, bao nhiêu cố gắng rồi cũng trở thành công cốc mà thôi. Bài viết sau đây xin bàn riêng về chuyện hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù, quên đi quá khứ, hợp tác xây dựng đất nước.
CS không thực tâm hòa hợp hòa giải CSVN hiện nay hễ có dịp là mở loa tuyên truyền hô hào hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù, quên đi quá khứ, cùng hợp tác xây dựng đất nước. Làm gì có chuyện CS chịu hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù, quên đi quá khứ, hợp tác xây dựng đất nước theo đúng ý nghĩa tích cực của những nhóm từ này. Nếu có chăng chỉ là sự lợi dụng từ ngữ, là “treo đầu dê bán thịt chó”, phỉnh phờ lừa gạt những người ngây thơ nhẹ dạ, hoặc may ra chiêu dụ được những kẻ vô liêm sỉ, sớm đầu tối đánh, bán rẻ nhân cách, dẫu biết CS là tội đồ của dân tộc nhưng vì chút bả lợi danh, chưa vinh đã nhục, đem thân về làm tôi mọi cho giặc thù. Thời gian qua đã chứng minh những kẻ đó trước sau gì cũng đều thân bại danh liệt, mất hết tiền bạc của cải và có khi cả mạng sống cũng không còn. Hòa hợp hòa giải (HHHG) đúng nghĩa bao hàm sự tham gia đồng thuận của hai hay nhiều bên và chỉ thật sự có ý nghĩa khi các bên với tương quan lực lượng tương đối ngang ngửa nhau, đang trong tình trạng tranh chấp, đối kỵ nhau, nay cùng thuận tình ngưng chiến, cùng bãi binh giải giáp, mỗi bên chịu nhường nhịn bên kia một chút để có thể chung sống trong hòa bình, bình đẳng và tin tưởng lẫn nhau. Hoặc giả có một bên nắm thế thượng phong nhưng là bên chính đạo, vì nhân đức không muốn kéo dài cuộc huynh đệ tương tàn, vốn dĩ chỉ làm suy yếu dân tộc, dễ tạo cơ hội cho ngoại bang dòm ngó, tất sẽ thật lòng mở cửa đón nhận phía bên kia trở về hợp tác, chia sẻ quyền hành theo đạo lý “khôn ngoan đá đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. CSVN thì không vậy. CS miệng nói HHHG nhưng tay xiết chặt uy quyền; củng cố địa vị độc đảng, độc tôn, độc tham, độc lợi; thống trị đất nước theo đường lối độc tài, độc đoán, độc địa, độc ác; đè đầu cưỡi cổ người dân bằng đe dọa, khủng bố, đàn áp, côn an, dùi cui, súng đạn, nhà tù. Đại ma đầu CS chuyên chơi trò bá đạo, siêu lừa đảo, trùm đấu tố, thủ tiêu, thanh trừng, vắt chanh bỏ vỏ, coi mạng người như cỏ rác, cướp chính quyền, cướp đến cả nước không biết ngượng mặt thì không lẽ chúng ngu mà phải mất công soạn cỗ bàn mời các “khúc ruột ngàn dặm” về để an nhàn hưởng thụ? Đối với CS, HHHG chỉ là một cái bẫy, một cú lừa, một chiến thuật ma mãnh để lợi dụng rồi triệt tiêu đối thủ.Trong quá khứ, CS đã từng sử dụng HHHG với ý đồ thâm hiểm như vậy. Tháng 12-1945 CS giả vờ giải tán đảng CSĐD, chấp nhận thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời đầu năm 1946 để kêu gọi các đảng phái quốc gia (Việt Quốc, Việt Cách), các nhà tranh đấu chống thực dân không cộng sản ra hợp tác rồi sau đó thẳng tay đàn áp thanh toán. Lực lượng các nhà cách mạng ái quốc ngày ấy đã bị thiệt hại về cơ sở, tổn thất về nhân mạng biết bao nhiêu khi không lường được âm mưu độc ác của bọn đầu sỏ đảng CSĐD mà đứng đầu là Hồ Chí Minh. Lại nữa, ngày 27- 1-1973 CS ký hiệp định Paris chấp nhận ngưng chiến trong đó có điều khoản ấn định quân đội các bên ở đâu ở nguyên đó, chờ tổng tuyển cử tại miền Nam và sau đó hợp tác tiến hành thống nhất đất nước theo tinh thần HHHG. Nhưng chính bọn chúng đã lợi dụng sự rút quân của Mỹ và việc QH Mỹ cắt giảm viện trợ cho VNCH mà vi phạm trắng trợn các điều khoản của hiệp định này. Bộ đội miền Bắc ào ạt xâm nhập miền Nam với viện trợ quân sự tối đa từ các nước CS quốc tế, tấn công các tỉnh thành của miền Nam, dẫn đến sự sụp đổ của VNCH ngày 30-4-1975. Trở về chuyện CS kêu gọi HHHG đối với cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại. Trong tương quan lực lượng, CĐNVTNHN chưa thể đấu sức ngang bằng một đối một với CSVN. Vậy không thể dựa vào sức mạnh quân sự hay kinh tế tài chánh để đặt lên bàn cân HHHG mà trả giá với CS. Người Việt quốc gia chỉ có một tấm lòng. Nhưng tiếc thay, CSVN lại là những kẻ phi nhân, thâm độc, xảo trá. Nếu nghe lời CS mà về hợp tác thì có khác gì tự đưa thân vào rọ. Hãy nhìn kỹ những gì CS đã và đang làm trong nước để nhận rõ bản chất và con người CS xem có đáng tin cậy không? Có sẽ đối xử với người quốc gia một cách bình đẳng hay không: Vốn dĩ là một đảng cướp, mang bản chất gian hùng của những tên cướp cùng với tài lừa đảo tráo trở, CS ngoài mặt phỉnh lừa, mị dân với những khẩu hiệu tuyên truyền: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, dân làm chủ”, “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “Một cây kim sợi chỉ của dân cũng không màng”, v.v…, nhưng thật sự cán bộ CS mới là chủ bự, chủ cá mập, nhất là những tên cán bộ gộc, đám chóp bu, đỉnh cao trí trá, là bọn tư bản đỏ với tài sản của mỗi tên vơ vét từ tham nhũng, ăn hối lộ, thâm lạm công quỹ, bán đất rừng biển đảo cho Tàu cộng, làm giàu trên xương máu của đồng bào lên tới hàng tỷ Mỹ kim. Chứng tích về những khối tài sản kếch sù gồm bất động sản, dinh thự, nhà cửa, xe cộ, chứng khoán, tài khoản ngân hàng, của chìm của nổi… có được do làm giàu bất hợp pháp của các quan to chức lớn CS cùng gia đình và dòng họ đã được các nhà tranh đấu và các trang mạng trong nước phanh phui tố cáo từ nhiều năm nay. Chúng ta cũng đã biết rằng HHHG là phải có nhượng bộ từ các phía nhưng CS thì có bao giờ nhượng bộ ai? Không cần nhìn kỹ cũng thấy rõ bất cứ điều gì đi ngược lại hoặc động chạm đến âm mưu đen tối, quyền lực, tài sản của CS đều không được chúng chấp nhận. (Dĩ nhiên nếu có nhượng bộ thì CSVN phải nhượng bộ TC vì đó là quan thầy của chúng, bảo hộ cho chúng yên tâm làm tay sai đè đầu cưỡi cổ dân đen chờ ngày VN được sáp nhập vào mẫu quốc). Khi có một tiếng nói, một hành vi dù là bất bạo động của bất cứ ai, đặt dấu hỏi về hiện tình an nguy của tổ quốc trước hành động ngang ngược xâm lấn của TC, về tính minh bạch của đường lối đối ngoại, về thái độ im lặng của nhà cầm quyền CS, về hiệu quả điều hành đất nước của đảng, về khả năng, tư cách, đạo đức của đảng viên thì đều bị côn an mật vụ đàn áp, dập tắt một cách phũ phàng hung bạo. Khi có ai thắc mắc về mớ hiến pháp giấy lộn, luật lệ rừng rú, quốc hội bù nhìn, tòa án công cụ, quân đội tay sai, tự do một chiều, nhân quyền bóp nghẹt, dân chủ giả hiệu, bình đẳng gian dối của bọn chúng thì người đó chắc chắn sẽ bị đe dọa, thậm chí bị khép tội, bỏ tù. Cũng khi có người nào lên tiếng kêu nài than oán, phản ánh về nạn tham quan ô lại, về những bất công sai trái mà dân đen phải chịu, cho tới những tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi sinh, tàn phá môi trường, suy đồi đạo lý thì người đó sẽ bị làm khó dễ, nhẹ thì theo dõi cản đường cấm lối, nặng thì thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Đối với người dân sống lâu đời trong chế độ CS còn bị xử tệ như vậy, nói chi tới quân dân cán chính của chế độ VNCH vốn thuộc thể chế dân chủ đa nguyên, tam quyền phân lập, tự do bình đẳng, đối nghịch hoàn toàn với chủ nghĩa độc tài CS thì làm gì CS chịu HHHG, bắt tay hợp tác một cách đúng nghĩa. Bất cứ khi nào có bóng dáng, hình ảnh, biểu tượng của VNCH như lá cờ vàng ba sọc đỏ, bài quốc ca “Tiếng Gọi Công Dân”, quốc huy, huy hiệu của các đơn vị quân đội, các quân hành khúc và ngay cả những quân trang quân dụng của QLVNCH cũng gây cho CS sự sợ hãi, ám ảnh khủng khiếp. Giống như đêm tối sợ ánh sáng, tội ác sợ công lý, ma quỷ sợ con người, ở trong nước chính quyền CS đã điên cuồng ra lệnh triệt hạ đàn áp không nương tay những ai còn thương quý, giữ gìn, cổ xúy cho những hình ảnh, biểu tượng đó. Việc công an vội vã bắt giam, khám xét nhà, truy tố người bạn trẻ Nguyễn Viết Dũng (tức Dũng Phi Hổ) mới đây chỉ vì anh treo cờ, đeo huy hiệu và mặc quân phục VNCH đã chứng tỏ CS rất sợ và đố kỵ những gì thuộc chế độ cũ. Như vậy có thể nào tin những điều CS nói về chuyện HHHG với người Việt quốc gia được không? Với thói quen của những tên cướp, lấy lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, quyền lợi phe đảng làm phương châm hàng đầu, CSVN làm gì có thực tâm HHHG. Người Việt quốc gia nào thành thật cho rằng CS bây giờ đã thay đổi, rằng CS cũng có lòng ái quốc, có tình đồng bào cùng chung máu đỏ da vàng, rằng CS thực tình muốn hòa giải dân tộc, rằng mình về hợp tác sẽ được niềm nở đón tiếp, săn đón trọng vọng là đang nằm mơ, hoặc là quá ngây thơ nếu không muốn nói là rất khờ dại.
CS không xóa bỏ hận thù và quên đi quá khứ Cũng làm gì có chuyện CS thực tâm xóa bỏ hận thù và quên đi quá khứ mà hô hào phía VNCH làm như vậy. Nếu thực sự muốn xóa bỏ hận thù thì ở cương vị kẻ thắng trận, CS ít nhất đã phải có những hành động thiết thực để xoa dịu vết thương, hàn gắn đổ vỡ do chiến tranh để lại bất kể những vết thương hay đổ vỡ đó do bên nào gây ra (tựa như những gì đã xảy ra sau cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ). Tiếc thay CS không phải là đại nhân quân tử hay người có tâm đạo với lòng yêu nước thương dân chân chính để làm những công việc có ý nghĩa đó mà là ngược lại. Trong 40 năm qua những gì CS làm chỉ chứng tỏ chúng vẫn mang tâm địa tiểu nhân, vẫn khư khư ôm mối thù hận VNCH một cách vô lý và chính chúng là kẻ hay nhắc đến quá khứ hơn ai hết. Nếu CS thật sự xóa bỏ hận thù thì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa của VNCH (thuộc thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương bây giờ) và tất cả mộ bia của tử sĩ VNCH trên khắp miền Nam đã không bị ngăn cấm, gây khó dễ cho việc thăm viếng, đã không bị bỏ hoang phế, thậm chí đào bới, hủy hoại với chủ đích làm cho tuyệt tích. Nếu CS thực sự xóa bỏ hận thù thì không phân biệt bên này hay bên kia, tất cả những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh bảo vệ biên giới, hải đảo của tổ quốc chống bọn xâm lăng bá quyền phương Bắc (TC) phải được tưởng nhớ, truy điệu, vinh danh một cách trang trọng, xứng đáng. Nếu CS thực sự xóa bỏ hận thù thì tất cả thương phế binh, cô nhi quả phụ, nạn nhân chiến tranh của cả hai bên đã được chăm sóc và được hưởng chế độ an sinh trợ cấp như nhau. Nếu CS sẵn lòng quên đi quá khứ thì tất cả những sự khoe khoang khoác lác về “thành tích đánh Mỹ diệt Ngụy”, những “nhà bảo tàng tội ác Mỹ Ngụy” (hầu hết là ngụy tạo), những tượng đài, lăng tẩm, dấu tích tôn xưng những đầu sỏ CSVN (những kẻ mang đầy tội ác với dân tộc như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn…), những văn hóa phẩm, sách vở giáo khoa, sách báo, tài liệu, các phương tiện thông tin tuyên truyền, bài phát biểu v.v… mang tính đả kích VNCH phải bị dẹp bỏ hoàn toàn. Nếu CS thật tâm quên đi quá khứ thì từ chóp bu lãnh đạo cho đến tất cả đảng viên CS các cấp đều phải bỏ hết thái độ kiêu căng tự mãn với những lời lẽ miệt thị hạ nhục quân dân cán chính VNCH. Và cũng nếu quả thật quá khứ đã được người CS chôn vùi thì toàn dân phải được hưởng những quyền lợi như nhau, được đối xử ngang nhau không phân biệt kẻ Nam người Bắc, chế độ cũ chế độ mới, bên thắng bên thua, đảng viên hay không đảng viên v.v... Trên đây chỉ là tạm liệt kê một số việc đáng lẽ CS phải làm ngay nếu thực lòng muốn chìa bàn tay mời gọi chuyện xóa bỏ hận thù, quên đi quá khứ. Nếu CS không làm được những việc như thế thì đừng mong người Việt quốc gia vơi bớt niềm thù hận do những tội ác mà đảng CS đã gây ra, và quá khứ đau thương sẽ còn được nhắc đến mãi mãi ngày nào CS hoặc bìến thân của nó hãy còn hiện diện trên trái đất này. Người Việt quốc gia không khi nào trở về hợp tác xây dựng đất nước khi trong nước hãy còn CS Khi CS đã không thực tâm hòa HHHG, xóa bỏ hận thù, quên đi quá khứ thì nói gì đến chuyện hợp tác xây dựng đất nước. Không có những hành động cụ thể minh chứng cho việc HHHG chân chính, không có những chỉ dấu rõ ràng đáng tin cậy bảo đảm cho việc xóa bỏ hận thù, quên đi quá khứ thì những lời rủ rê mời gọi của CS để cùng nhau xây dựng đất nước chỉ là cái bẫy rẻ tiền không lừa dụ được ai. Người Việt tị nạn hải ngoại xuất thân từ những công dân nước VNCH luôn khắc khoải một lòng thương nhớ về quê hương đất nước, luôn mong chờ một ngày được trở về đem kiến thức, trí tuệ, sức lực và tài sản để chung tay xây dựng, bảo vệ tổ quốc nhưng họ sẽ chỉ trở về trong tư thế là những công dân của một nước Việt Nam không cộng sản, một nước Việt Nam tự do, dân chủ, nhân ái và bình đẳng. CSVN dù có vận dụng bao nhiêu mưu mẹo, bàn thảo bao nhiêu nghị quyết, tiêu tốn bao nhiêu tiền bạc, công sức, thì giờ cho việc tuyên truyền, kêu gọi, dụ dỗ người Việt tị nạn hải ngoại thì cũng vô ích mà thôi. Văn minh nhân loại đã tiến những bước rất dài và rất nhanh, trong đó có sự phổ cập sâu rộng của truyền thông internet trên toàn thế giới. Những sự thật về chế độ phi nhân CS, những tội ác dã man mà CS quốc tế gây ra cho nhân loại nói chung và của CSVN gây ra cho dân tộc VN nói riêng, những gian ác tráo trở bịp lừa, những bí mật động trời mà CS bao năm qua cố công che dấu nay đã được phanh phui đưa ra ánh sáng. Dần dần tất cả người dân trong nước đã biết rõ và đã có phản ứng khinh ghét, tẩy chay, chống đối đảng CS. Hàng ngũ đảng viên CS, kể cả đảng viên kỳ cựu đã phản tỉnh và công khai từ đảng, thoái đảng, cũng như đã lên tiếng vạch trần những tội ác, âm mưu đen tối của đảng từ ngày thành lập đến giờ. Thế hệ trẻ trong nước đã và đang đi đầu trong phong trào tranh đấu đòi tự do, dân chủ, nhân quyền, chống chế độ độc tài hà khắc, tố cáo tham nhũng và bất công xã hội, nhất là lên án thái độ nhu nhược hèn nhát trước những hành động ngang ngược của bá quyền Tàu cộng tấn công giết hại ngư dân VN, xâm lấn, vi phạm trắng trợn đất liền và biển đảo của VN. Hiện nay, CSVN và một vài nước CS khác còn tạm tồn tại chỉ là nhờ cố gắng sử dụng đến bạo lực để đe dọa và trấn áp người dân. Nhưng bạo lực lại chính là con dao hai lưỡi và là phương cách mong manh nhất cho việc cai trị một quốc gia. Khi người dân trong nước đã ý thức được quyền con người, nhận biết đâu là chính đâu là tà, chế độ nào là thực sự tốt đẹp, bởi dân, cho dân, vì dân, chế độ nào là gian manh tàn ác, ích kỷ cá nhân, hại dân bán nước thì ngày tàn của bạo chúa đã gần kề. Quang Dương
|
|