|
Post by GiveBackMyWorld on Feb 3, 2018 22:27:07 GMT -6
Lịch sử lá cờ vàng thực hiện bởi nhóm Vietnam Film Club.
Một du sinh VN chia sẻ: Vì sao lá cờ vàng khai sáng cho tôi
Xin được chia sẻ một bài viết của Tác Giả Trần Trung Đạo được lượm lặt từ www.trantrungdao.com/?p=3696. CỜ VÀNG NHÌN TỪ HƯỚNG CON TIM CỜ VÀNG NHÌN TỪ HƯỚNG CON TIM Tâm Bút Trần Trung Đạo (VNN) Thứ Năm 31 Tháng Bảy 2003, viết ngắn cho FB 2017 Nền cờ vàng là dải giang sơn Ba sọc đỏ nối ba miền chung thủy Là Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn, Thất Sơn hùng vĩ Là sông Hồng, sông Cửu, sông Hương Hãy cầm chặt nghe em, như cha giữ biên cương Như thuở mẹ ôm em giữa lòng biển cả … Tôi viết bài thơ Người Con Gái Trên Đường Bolsa trong những ngày mấy chục ngàn đồng hương Việt Nam, trong đó có hàng ngàn tuổi trẻ, cùng xuống đường phản đối ông Trần Trường treo hình Hồ Chí Minh ở khu Bolsa, tiểu bang California, Hoa Kỳ, đầu năm 2000. Tôi gởi bài thơ lên Internet. Một bạn trẻ in bài thơ ra và dán trước tiệm của ông Trần Trường. Một bạn khác chép lại bài thơ trước cửa tiệm và đem tặng nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng. Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng phổ thành ca khúc và sau đó cùng với nhạc sĩ Nhật Ngân và Mây Production làm thành CD Lửa Bolsa. Kể lể như vậy không phải để quảng cáo cho bài thơ hay cho CD vì chuyện đã qua khá lâu rồi. Điều quan trọng tôi muốn nói, dù chúng tôi thuộc nhiều thế hệ khác nhau, chưa hề quen biết nhau trước và định cư trên những vùng đất khác nhau, lá cờ vàng, biểu tượng của niềm tin tự do dân chủ và những trăn trở về đất nước đã mang chúng tôi đến gần nhau. Câu chuyện về lá cờ cũng gợi lại trong tôi một kỷ niệm khó quên khác trong những ngày đầu ở trại tỵ nạn Manila. Rất tình cờ, cũng trong tháng Sáu này, 22 năm trước tôi và 81 bà con khác được đưa lên xe bus, rời chiến hạm USS White Plains ở cảng Subic Bay để về trại tỵ nạn Puerto Princesa ở ngoại ô Manila. Sau khi làm xong các thủ tục với đại diện Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, tôi chính thức trở thành người Việt Nam tỵ nạn và được đặt cho một cái tên mới, bắt đầu bằng chữ P, viết tắt của Philippines, theo sau bằng một dãy số dài. Một người Việt Nam làm việc ở văn phòng Cao Ủy, dặn tôi nhớ học thuộc con số này vì đó sẽ coi như là tên mới của tôi trong hồ sơ tỵ nạn. Trại Manila là một trạm chuyển tiếp nhỏ dành cho những người mới đến và là trạm dừng chân của bà con chờ lên máy bay đi định cư ở nước thứ ba hơn là một trại tỵ nạn dài hạn với các phương tiện cần thiết. Tôi ngủ đêm đầu tiên trên nền xi-măng, cuộn tròn trong chiếc mền mới vừa được cấp. Khoảng 8 giờ sáng, một người nào đó bước vào phòng và la lớn: “Bà con thức dậy chuẩn bị làm lễ chào cờ đầu tuần.” Như một cái máy, tôi thức dậy rửa mặt và chạy ra sân sắp hàng. Sau một tuần trên biển với quá nhiều thay đổi, trí óc tôi chưa hoàn toàn tỉnh táo để phân định một cách chính xác mình đang ở nơi đâu trên trái đất nầy. Tôi bàng hoàng và xúc động khi lần đầu tiên sau 6 năm, thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ được từ từ kéo lên trên cột cờ giữa sân trại. Không phải chỉ mình tôi, chung quanh tôi ai cũng khóc vì xúc động ngay khi câu đầu tiên của bản quốc ca được hát lên “Nầy công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi.” Tôi rưng rưng nước mắt. Nhiều anh cựu quân nhân càng khóc lớn hơn. Các anh khóc là phải. Bởi vì đó là một trong những giây phút linh thiêng nhất trong đời các anh. Trong khoảnh khắc kỳ diệu đó, bạn bè, anh em, đồng đội của các anh đã trở về. Chiếc quan tài phủ quốc kỳ, tiếng kèn truy điệu, tiếng súng chào vĩnh biệt, những vầng tang trắng xót xa. Đó cũng là phút giây kiêu hãnh của một đời trai với những chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị, Thượng Đức, Bình Long, Chương Thiện, An lộc, Bình Long, Bồng Sơn, Mộ Đức, v.v.. Tất cả nay còn đâu. Có chăng chỉ còn trong ký ức. Thành thật mà nói, sáng hôm đó, tôi không tự mình hát hết bản quốc gia mà không vấp váp đôi lời nhưng nhờ cùng hát với nhau nên không trở ngại gì nhiều. Tôi hát bản quốc gia bằng tất cả tâm hồn và xúc động. Thời còn ở trung học, tôi chỉ hát mỗi sáng thứ Hai, và cũng chỉ hát như bổn phận học trò. Một người bạn học vói tay cầm lấy tay tôi. Tôi vói nắm tay người bên cạnh. Và cứ thế, không hẹn, gần trăm người cùng chuyến ghe nắm lấy tay nhau. Chúng tôi không nói với nhau lời nào nhưng ánh mắt mọi người đều sáng lên niềm vui khi biết mình đã sống sót sau chuyến hải hành nguy hiểm và đang thật sự đứng trên vùng đất tự do. Sau buổi chào cờ, một thành viên trong ban đại diện trại hạ lá cờ xuống, xếp lại đem cất. Hỏi ra tôi mới biết, chính quyền người Phi chỉ cho phép ban đại diện trại người Việt mượn cột cờ để chào cờ Việt Nam Cộng Hòa vào mỗi sáng thứ Hai, chứ không được phép treo cờ thường xuyên trên đó. Câu trả lời của người kéo cờ, lần nữa xác định một sự thật đau xót, rằng tự do mà tôi đang có không những chỉ là tự do của cá nhân tôi mà còn là tự do trên đất khách. Bên kia bờ đại dương là một quê hương đang quặn quại trong nhà tù có diện tích 329,560 cây số vuông với chiều dài bằng chiều dài đất nước. Giấc mơ của ngày về để được hát quốc ca, để chào cờ chỉ còn là một dấu than dài đọng lại trong bài thơ “Giấc Mơ Nhỏ Của Tôi” tôi viết trong những ngày sau đó : Ôi quê hương, bao giờ tôi trở lại Đi giữa ngày không sợ bóng đêm đen Trong giấc ngủ không xích xiềng réo gọi Câu thơ tình chỉ viết để yêu em. Trong Giấc Mơ Nhỏ Của Tôi, tôi thấy trời Sài Gòn, Đà Nẵng rực rỡ cờ vàng. Tôi cũng thấy mình đang sắp hàng chào cờ sáng thứ Hai trong sân trường Trần Quý Cáp, Hội An và hát bài quốc ca không vấp một lời nào. Tôi sinh ra ở miền Nam sau khi hiệp định Geneve được ký kết. Màn một của vở bi kịch Việt Nam đẫm máu vừa chấm dứt và màn hai đẫm máu hơn đang chuẩn bị bắt đầu. Những chiếc tàu há mồm cập bến miền Nam mang theo hàng triệu đồng bào từ miền Bắc chọn lựa một đời sống mới tự do. Và tương tự, hàng ngàn cán bộ Việt Minh gốc miền Nam cũng lên đường tập kết ra Bắc, được hứa hẹn một ngày trở về đoàn tụ với gia đình trong một quê hương hòa bình thống nhất. Đất nước đang trong buổi giao thời. Không khí tạm thanh bình, yên lặng, dù chỉ là sự thanh bình yên lặng trước khi một cơn bão lớn hơn sẽ thổi qua đây. Tuổi thơ tôi lớn lên trên những cồn cát xinh xinh, dưới những hàng tre nghiêng soi bóng trên dòng nước Thu Bồn thơ mộng. Số phận của đời tôi, giống như số phận của quê hương, đang chuẩn bị cho những thách thức sắp sửa phải đương đầu, nên từ tuổi mới biết suy tư, cũng là khi tôi bắt đầu mơ mộng. Mơ về một chân trời. Như một điều không tránh khỏi, những ngày tháng thanh bình không được bao lâu, tiếng súng lại nổ vang. Bộ chính trị đảng Lao Động Viêt Nam, tên đối ngoại của đảng Cộng Sản Việt Nam, quyết định Cộng Sản hóa miền Nam bằng con đường vũ lực. Từng đoàn thanh niên miền Bắc lại phải từ giã mái trường, từ giã gia đình thân thuộc, băng rừng vượt suối vào Nam để hoàn thành giấc mơ nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam của Hồ Chí Minh và quốc tế Cộng Sản. Thêm vào đó, khi cuộc tranh chấp bức tường Đông Đức lắng dịu, nội chiến Triều Tiên đã tạm ngừng tiếng súng, lò lửa Trung Đông chỉ mới bắt đầu, Việt Nam là một thí điểm lý tưởng và hội đủ điều kiện địa lý chính trị để làm một điểm nóng trong cuộc chiến tranh lạnh giữa các tập đoàn đế quốc. Chim rừng Trường Sơn bặt tiếng hót. Màu hỏa châu thay thế ánh trăng vàng. Tiếng đại bác đêm đêm đã thay cho tiếng ru ngọt ngào của mẹ. Những chiếc bánh vẽ độc lập, tự do, hạnh phúc lần nữa được trưng bày giữa căn nhà đổ nát và nghèo đói Việt Nam. Và ở đó, ở miền Nam tự do nhưng ngút ngàn bão lửa, tôi đã lớn lên. Tôi lớn lên với nhiều câu hỏi. Quốc Gia là gì? Cộng Sản là gì? Quốc Gia là ai? Cộng Sản là ai ? Tại sao là Việt Nam mà không phải là Thái Lan, Singapore, Mã Lai? Trước 1975, tại miền Nam không bao nhiêu người giúp tôi trả lời một cách thông suốt những câu hỏi đó. Một số tác phẩm về chủ nghĩa Mác đầy thuật ngữ triết học của giáo sư Trần Văn Toàn, về chế độ thực dân của giáo sư Nguyễn Văn Trung, về đảng phái quốc gia của giáo sư Nghiêm Xuân Hồng,v.v.. không đủ để thỏa mãn sự khao khát, tìm tòi của một thanh niên mới lớn. Những bài giảng của thầy Trần Văn Tuyên trong trường đại học tập trung vào kinh nghiệm tranh đấu của thầy, quý giá nhưng không phải là một hệ ý thức chính trị quốc gia hoàn chỉnh. Thực dân Pháp sau gần một thế kỷ bóc lộc, nô lệ dân tộc ta đã thất bại và đã rút đi. Trên đường phố Đà Nẵng quê tôi đã nghe bước chân người lính Mỹ. Người Mỹ đến. Họ đến với để chận đứng sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản nhưng tiếc thay, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã đánh giá quá thấp hay ngay cả không hiểu được những điểm đặc thù trong truyền thống và văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong lúc người dân Việt Nam có khuynh hướng dè dặt, nghi ngờ và ngay cả chống lại sự có mặt, dù là với lòng tốt, của nước ngoài, thì chính phủ Hoa Kỳ, chưa nỗ lực đủ để chứng tỏ họ là bạn, không tách biệt được họ ra khỏi thực dân Pháp. Những toán người Mỹ đầu tiên đến Việt Nam là những chuyên viên phế lập tổng thống, những cố vấn quân sự, tình báo chứ không phải là các giáo sư đại học, các nhà giáo dục, kinh tế, xã hội. Chính nghĩa quốc gia là lý tưởng tự do, độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam, bắt đầu từ thời lập quốc hơn 4800 năm trước chứ không phải là món hàng được trao trả từ tay người Pháp hay được viện trợ bởi người Mỹ. Dòng phát triển tự do dân chủ là quy luật của văn minh và tiến hóa của loài người. Sức mạnh văn hóa lịch sử của dân tộc Việt Nam là sức mạnh vô địch đã được chứng minh nhiều lần trong lịch sử. Trong lúc Cộng Sản lợi dụng từng chữ, từng lời nói, từng câu thơ, từng nhân vật lịch sử, thì các nhà lãnh đạo miền Nam trước đây lại không vận động được sức mạnh truyền thống và tinh thần yêu nước của nhân dân miền Nam vào cuộc đấu tranh mất còn với Cộng Sản. Trong lúc Cộng Sản biến cờ đào khởi nghĩa của vua Quang Trung thành cờ đỏ của giai cấp nông dân vô sản, giải thích ba cuộc chiến kháng chiến chống quân Nguyên trong cùng ý nghĩa với ba cuộc chiến chống “ba tên đế quốc đầu sỏ Pháp, Nhật, Mỹ” thời hiện đại, thì các nhà lãnh đạo văn hóa tư tưởng miền Nam không có một phương pháp phản tuyên truyền nào hữu hiệu. Sau bao nhiêu năm vẫn một cuốn phim truyện đen trắng “Tôi Muốn Sống” được chiếu đi chiếu lại đến cũ mòn tội nghiệp. Tiếng hờn căm u uất của mấy nghìn người dân Huế bị giết thảm thương trong dịp Tết Mậu Thân không vọng qua khỏi đèo Hải Vân đừng nói chi là tòa án quốc tế The Hague. Khi viết ra những điều tôi không đồng ý với các bậc cha anh, không có nghĩa tôi muốn sửa sai, trách cứ các thế hệ đã đổ máu để tôi được có tự do ăn học và cũng không có ý ám chỉ tất cả những vị lãnh đạo tại miền Nam trước đây đều sai cả. Phê bình hay trách móc không phải mục đích của bài viết này. Tôi chỉ muốn thưa một điều rằng, mặc dù không ai có thể thay đổi hoàn cảnh, thay đổi quá khứ mà chúng ta đã sống nhưng vẫn có thể thay đổi góc độ nhìn của chúng ta về quá khứ, và từ đó can đảm thay đổi góc độ nhìn của chúng ta về tương lai. Cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do là một chiến đầy chính nghĩa. Giữa một hoàn cảnh bất lợi và môi trường chính trị khắc nghiệt, hạt mầm dân chủ vẫn cố gắng để vươn lên, cây tự do, dù chỉ mới có cơ hội được sinh ra vẫn cố gắng sống. Bao nhiêu thế hệ người Việt Quốc Gia đã lên đường đi bảo vệ mảnh đất tự do còn lại. Những tên tuổi, những địa danh An Lộc, Bình Long, Đông Hà, Thượng Đức, Chương Thiện, Rừng Sát… đã ghi sâu vào lịch sử. Máu của hàng trăm ngàn thanh niên miền Nam đã nhuộm thắm lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu. Những người con trai, con gái ưu tú của mẹ Việt Nam đã sống và chiến đấu ngay cả khi xích sắt T54 đang nghiền nát đường phố Sài Gòn. Các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Trung Tá Phạm Đức Lợi (Phạm Việt Châu), Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và hàng trăm sĩ quan và binh sĩ các cấp đã đi vào lịch sử dân tộc bằng những cái chết vô cùng dũng liêt. Họ là những Trần Bình Trọng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu của Việt Nam thế kỷ 20. Hình ảnh bất khuất của Trung Tá Cảnh Sát Long dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, mãi mười năm sau, ở hải ngoại vẫn chưa bao nhiêu người biết tên họ đúng của anh ngoài tấm bảng tên Long trên ngực áo từ tấm hình được in trong các tờ báo Mỹ. Trong giờ phút kinh hoàng đó, một người dân Sài Gòn vẫn dừng lại, kính cẫn đặt chiếc mũ sĩ quan Cảnh Sát lên ngực anh, xếp hai tay anh thẳng trong tư thế ngủ yên. Vâng, anh đã ngủ một giấc ngủ bình yên trong lòng mẹ Việt Nam. Sau ngày Cộng Sản, bằng T54 và đại pháo, cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam cuối tháng 4 năm 1975, lực lượng người Việt Quốc Gia tại miền Nam tuy đã bị tước đoạt vũ khí nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu. Mặt trận mới không diễn ra bằng súng đạn nhưng bằng sự chịu đựng, bằng khí tiết. Mặt trận mới không diễn ra ở Dakto, Bình Long, Quảng Trị nhưng ở Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa, Hàm Tân, Tiên Lãnh, Suối Máu… và hàng trăm nhà tù dã man khác đã được chế độ dựng lên khắp nơi trên đất nước. Sau 28 năm, ngoại trừ một số rất nhỏ bị khuất phục, đại đa số người Việt Quốc Gia, dù bị đày ải, vẫn giữ được nhân cách, khí tiết và niềm tin vào chân lý tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam. Cách đây 22 năm, trên sân cờ trại tỵ nạn Puerto Princesa, tôi mơ một ngày được thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay trên trời thủ đô Sài Gòn thân yêu. Sau 22 năm, ước mơ nhỏ của tôi ngày xưa khi đặt chân lên đảo Manila, không phai đi, không khác đi nhưng đã lớn cao hơn, trọn vẹn, sáng rõ hơn và mang một ý nghĩa quốc gia dân tộc rộng lớn hơn so với ước mơ của những ngày tôi mới rời khỏi nước. Tôi hiểu lá cờ vàng, không phải chỉ từ nguồn gốc nhưng còn từ máu xương, từ mồ hôi nước mắt, từ hơi thở của những người đã gìn giữ và bảo vệ vùng trời, vùng biển tự do của đất nước. Một tài sản dù đồ sộ bao nhiêu cũng không có giá trị lớn về mặt tinh thần, nếu tài sản đó không được đánh đổi bằng mồ hôi ước mắt của những người đã tạo ra nó. Lá cờ vàng đã đắp lên bao nhiêu ngôi mộ, bao nhiêu quan tài, bao nhiêu khuôn mặt tuổi thanh niên đã chết vì lý tưởng tự do của dân tộc trong cuộc chiến tự vệ đầy gian khổ suốt hai mươi mốt năm từ ngày đất nước bị chia đôi. Trong lúc đó, các nhà lãnh đạo Cộng Sản miền Bắc không thể chứng minh cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Hãy đọc con số thống kê : Ba triệu người chết. Ba trăm ngàn người còn ghi nhận là mất tích. Một xứ sở 28 năm sau chiến tranh, vẫn còn bị xếp vào một trong những nước chậm tiến nhất thế giới. Một chế độ độc tài đảng trị bị loài người khinh rẻ. Một nền kinh tế khoa học kỹ thuật đi sau nhân loại hàng thế kỷ. Nhãn hiệu độc lập, tự do, hạnh phúc sau bao năm đánh bóng cũng chỉ hiện nguyên hình là những con cá gỗ. Tất cả những hậu quả đó là cái giá dân tộc Việt Nam phải trả cho cuộc chiến tranh được gọi là “giải phóng dân tộc” của ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam. Đó không phải là chính nghĩa, không phải là giải phóng nhưng là tội ác diệt chủng. Trong bài thơ Người Con Gái Trên Đường Bolsa, mặc dù viết về lá cờ vàng, tôi không chỉ nhắc đến Trường Sơn, Thất Sơn mà còn nhắc đến cả Hoàng Liên Sơn, ngọn núi mà tôi chỉ biết qua những bài học địa lý. Tôi không chỉ nhắc đến sông Hương của miền Trung nghèo khó, sông Cửu Long của miềm Nam màu mở nhưng cũng không quên được dòng sông Hồng của miền Bắc chở đầy lịch sử. Nói rõ hơn, tôi không dừng lại ở vĩ tuyến 17, tôi không dừng lại ở những hiệp định Geneve, Paris, và ngay cả cũng không dừng lại ở Việt Nam Cộng Hòa bởi vì lá cờ vàng không đơn giản chỉ tượng trưng cho một chế độ nhưng là biểu tượng của chân lý tự do, của chính nghĩa dân chủ, của hy vọng vào một tương lai tươi sáng Việt Nam. Và sau những tháng năm học hỏi, tôi cũng hiểu ra rằng những cụm từ “Cộng Sản Bắc Việt” hay “Quốc Gia Miền Nam” mà tôi nghe cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hay nhắc tới trong các thông điệp của ông, là không đúng hẳn. Cộng Sản là một ý thức hệ độc hại, có thể gây nhiễm trùng cho bất cứ ai, cho bất cứ một người nào không nhất định phải là người miền Bắc, không nhất thiết phải là những người sống bên kia cầu Hiền Lương, và quan trọng hơn, đảng viên đảng Cộng Sản không có nhiều đến mấy chục triệu người. Trong biên bản của đại hội đảng Lao Động (tên đối ngoại của đảng Cộng Sản) lần thứ 3 ngày 5 tháng 9 năm 1960 cũng chỉ ghi rõ “số lượng đảng viên cả nước : 500 ngàn”. Mười chín triệu năm trăm ngàn đồng bào miền Bắc còn lại phải sống trong xích xiềng Cộng Sản vì họ không có một chọn lựa nào khác, không còn một nơi nào để sống chứ không phải tất cả đều là Cộng Sản. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là một bằng chứng điển hình của sự đối kháng giữa tự do nhân bản và độc tài nô lệ. Bao nhiêu phong trào phản kháng của giới trí thức, công nông và đòi hỏi tự do tôn giáo tại miền Bắc có thể đã bị dập tắt thô bạo mà chúng ta chưa biết hết. Sau 28 năm, Cộng Sản ngày nay, số lượng tuy tăng cao hơn nhưng phẩm chất còn ít hơn con số 500 ngàn của bốn mươi năm trước. Họ chỉ còn là một nhóm nhỏ những người đang cố bám vào mảnh ván quyền lực bằng phương tiện của nhà tù và sân bắn. Và ngay giữa lúc đang cười say trong canh bạc lận, ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam cũng biết ngày tàn của chế độ chỉ còn là một vấn đề thời gian mà thôi. Trong một phân tích tương tự, nếu định nghĩa người quốc gia là những người yêu nước, dâng hiến đời mình để mưu cầu hạnh phúc, độc lập, tự do cho dân tộc, thì người quốc gia cũng ở bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam, không nhất định phải miền Nam. Xương máu mà nhân dân Việt Nam trong nhiều thế hệ đã đổ xuống trong cuộc chiến tranh chống Thực Dân Pháp đầy chính nghĩa, không phải vì họ tin vào chủ nghĩa duy vật biện chứng hay xã hội đại đồng Cộng Sản, nhưng đơn giản, chỉ là những người yêu nước Việt Nam. Tình yêu họ dành cho nơi chôn nhau cắt rốn là một tình yêu thuần khiết và vô cùng trong sáng. Họ chỉ là những người đã chết cho Độc Lập, Tự Do đúng nghĩa. Họ ngã xuống cho thanh bình sớm được vãn hồi trên mảnh quê hương khổ đau và bất hạnh Việt Nam. Họ ngã xuống trong nụ cười bởi vì ngay cả khi khi nhắm mắt lìa đời họ vẫn tin rằng họ đang chết cho tổ quốc, đang chết cho tương lai dân tộc như tổ tiên họ đã chết trên sông Bạch Đằng, trên bến Chương Dương, trong đầm Dạ Trạch, giữa núi rừng Yên Thế. Họ chết đi trong giấc mơ tuyệt đẹp về một đất nước tương lai, một đất nước của Hùng Vương, của thương yêu và giàu mạnh. Và trong ý nghĩa đó, họ cũng là người Việt Quốc Gia. Ngạn ngữ tây phương có câu “Ai giải thích được lịch sử người đó thắng”. Những cường hào ác bá đang sống trong các biệt thự nguy nga ở Hà Nội, Sài Gòn ngày nay không phải là những người làm nên lịch sử nhưng chỉ là những kẻ, trước đây, làm công việc giải thích, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng xích hóa Việt Nam của Đệ Tam Quốc Tế, và ngày nay, để tiếp tục sống huy hoàng trên những thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam. Những phản ứng tức tối của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam trước việc các thành phố lớn nhỏ ở Mỹ nối tiếp nhau công nhận lá cờ vàng cho thấy sự sợ hãi của họ trước một sự thật lịch sử mà họ không còn có thể che đậy, dấu diếm, lừa gạt được ai hay giải thích cách nào khác hơn nữa. Lịch sử cuối cùng sẽ thuộc về những người đã làm nên lịch sử. Ngày nay, đối lực giữa sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam và thiểu số đặc quyền đặc lợi Cộng Sản đã hoàn toàn chênh lệch. Niềm tin dân tộc chưa bao giờ sáng hơn lúc này. Sức mạnh dân tộc chưa bao giờ mạnh hơn lúc này. Không giống như những năm đầu thập niên 90, khi những lực lượng, tuy chống đối nhà nước Cộng Sản nhưng vẫn còn đậm màu quá khứ và nặng tính địa phương như “Sĩ phu Bắc Hà”, “Kháng chiến Nam Bộ”, thì ngày nay, đoàn kết dân tộc là mẫu số chung, là điểm tựa, là vũ khí và sức mạnh trong cuộc cánh mạng dân tộc và dân chủ tại Việt Nam. Trận tuyến ngày nay là trận tuyến giữa dân tộc và phản dân tộc, giữa dân chủ và phản dân chủ, giữa bảo vệ tổ quốc và bán đứng đất đai tổ quốc. Người Việt trong nước và hải ngoại không còn ai bận tâm việc bác sĩ Phạm Hồng Sơn là người tỉnh nào, luật sư Lê Chí Quang là người miền nào. Điều làm mọi người cảm thấy hy vọng và an ủi là hầu hết các khuôn mặt đấu tranh trong nước hiện nay thuộc thế hệ trẻ và trung niên như Phạm Hồng Sơn 34 tuổi, Lê Chí Quang 32 tuổi, Nguyễn Khắc Toàn 47 tuổi, Nguyễn Vũ Bình 35 tuổi. Lớp tuổi của họ là lớp tuổi để làm một chiếc cầu cảm thông giữa các thế hệ, là lớp tuổi trưởng thành trong kinh nghiệm, đầy đủ hiểu biết và nhất là, không phải mang trên vai hành lý nặng nề. Mẫu số chung tinh thần dân tộc mà tôi vừa thưa ở trên không những chỉ giá trị đối với những người đã từng hy sinh, từng đổ máu dưới bóng cờ vàng, mà còn mở ra cánh cửa của chính nghĩa tự do và bao dung dân tộc cho cả những người chưa hề thấy lá cờ vàng. Cái chung tinh thần đó vượt lên trên mọi hiệp định, mọi vĩ tuyến, mọi chia cách, mọi tôn giáo, thế hệ, trong hay ngoài nước. Cái chung tinh thần đó, có thể đang sôi sục trong lòng tôi hay tạm ngủ quên trong lòng anh chị nhưng chắc chắn đã và đang hiện hữu trong mỗi người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước. Nếu chúng ta biết đánh thức cái chung tinh thần đó dậy, sống trọn vẹn với cái chung đó, tôi tin rằng đại gia đình dân tộc Việt Nam sẽ sớm một ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Dân tộc Việt Nam không hề đặt bút ký thỏa ước Patenotre, hiệp định Geneve hay hiệp định Paris. Tất cả chỉ là sự áp đặt của các đế quốc đã diễn ra dưới nhiều hình thức trong những thời điểm khó khăn của vận mệnh đất nước. Trong suốt hai thế kỷ qua, dân tộc Việt Nam liên tục là nạn nhân đáng thương, bị xâm lược bởi các ý thức hệ ngoại lai vong bản. Không một người Việt Nam yêu nước nào muốn thấy quê hương chìm đắm và tiếp tục chìm đắm trong lạc hậu, độc tài triền miên như thế này. Khi còn nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy lá cờ vàng từ góc độ của một sân trường trung học. Khi lớn lên, học hỏi thêm, tôi nhìn lá cờ vàng từ góc độ của chế độ mà tôi đã sống, từ miền Nam tự do mà tôi đã ra đi, từ đất nước của Hùng Vương mà tôi yêu quý. Và hôm nay, tôi nhìn lá cờ vàng từ hướng trái tim của một em bé Việt Nam vừa mới sinh ra, đang đập theo nhịp đập của tương lai dân tộc. Bởi vì cuối cùng, chỉ có người Việt Nam mới thấm thía được nổi đau Việt Nam và chỉ có người Việt Nam mới ôm ấp và đeo đuổi giấc mơ tự do dân chủ cho chính mình và tương lai của con cháu mình. Nếu tất cả chúng ta cùng biết đau một nổi đau chung và cùng biết đeo đuổi một giấc mơ Việt Nam chung như thế, tôi tin tưởng rằng lá cờ vàng chính nghĩa chắc chắn sẽ có một vị trí xứng đáng trong lịch sử và mãi mãi phất phới bay giữa lòng dân tộc Việt Nam. Trần Trung Đạo
|
|
XinDungQuenChungTaLaAi
Guest
|
Post by XinDungQuenChungTaLaAi on May 31, 2018 12:51:50 GMT -6
Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ,
Là Biểu Tưọng Cao Quý Nhất của Quốc Dân VN HỒ ĐINH
Hơn 85 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu trên lãnh thổ VN và những nơi chốn có người Việt TNCS sinh sống sau ngày mất nước 30-4-1975.. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại vỹ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới tuyến : Đồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì " Lá Cờ " được treo ở hai đầu cầu Hiền Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định Geneve (1954-1956) còn có sự hiện diện của các toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định 3,2x 4,8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ Vang ba Sọc Đỏ , theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc " Chọi Cờ " bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải , mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cở " cờ " tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không ai có quyền bắt buộc người khác phải theo ý mình , đứng chung dưới một lá cờ mà trong thâm tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa bán nước như lá cờ máu của Cộng Đảng VN.
Ngoài lá Quốc kỳ " Màu Vàng Ba Sọc Đỏ ", quốc dân VN còn phải biết lịch sử của hai tiếng VN mà chúng ta đang trân trọng gìn giữ và bảo tồn. Theo sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802 (STL) là năm mà Đức Gia Long Hoàng Đế nhà Nguyễn, đã có công thống nhất được toàn cõi sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên, giữa các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Du Địa Chí của Nguyễn Trải, Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.. Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau này, còn tìm thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ Việt-Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị " An Nam hay Giao Chỉ ".Thời Pháp thuộc, thực dân cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.
Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời Quang Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam. Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngũi, nên việc sử dung quốc hiệu VN cũng theo vận nước trôi vào quên lãng.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi sứ sang nhà Thanh, trả lai ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.
1- Cờ Đỏ Sao Vàng Của Đảng CSVN :
Hiện VC đang sử dụng lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cong sản Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến. Cờ này chỉ xài tại nội địa và đưọc treo bên trong các lãnh sự quán của VC ở hải ngoại. Ngoài ra Hà Nội còn xài thêm lá cờ nữa gọi đảng kỳ, hình thức giống lá cờ trên nhưng đưọc vẻ thêm búa liềm. Cờ này cũng đưọc nhái theo nguyên mẫu lá cờ của Liên Bang Xô Viết cũ.
Căn cứ vào các nguồn tài liệu hiện tại, thì lá cờ của CSVN được gọi là Hồng Kỳ (Cờ Đỏ), do Nguyễn Hửu Tiến vẽ mẫu và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 11-1940. Tuy nhiên Lá Cờ Đảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã khác với Kỳ Hiệu của Phong Trào Việt Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng không còn là đường cong, mà đã trở thành đường thẳng, y chang Cờ Liên Xô và Trung Cộng
Tổng hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của Cộng Sản Tàu tại Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ Đỏ Sao Vàng, mà CSVN đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra Đảng còn xài thêm Lá Cờ Búa Liềm, đã sao chép của Liên Xô. Đây là những lá cờ của ngoại bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc mọi người phải tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố .
2- Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ :
Quốc dân VN thì chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi nhưng chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến 17, từ Đồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân VN. Kể từ ngày 1-5-1975, tuy VNCH không còn nhưng Lá Cở Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn tồn tại và theo chân người Việt TNCS, qua khắp mọi nẻo đường hải ngoại, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quý bảo tồn và coi đó như một biểu tượng thiêng liêng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.
Tại các nước Âu Châu, Canada, Úc và nhất là Hoa Kỳ, có nhiều người Việt tị nạn định cư, sau bao chục năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện, thỉnh cầu chính quyền sở tại, công nhận " Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ " của VNCH, như là một biểu tượng tinh thần cao quý nhất của Cộng Đồng VN tị nạn. Sự kiện mới đầy, chính quyền thành phố Westminster thuộc Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành quyết định " cấm lá cờ máu đỏ sao vàng của VC xuất hiện nơi công cộng ", là một chiến thắng lớn của người Việt QG/TNCS, trên chặng đường đấu tranh quang phục đất nước, đang nằm dưới ách nô lệ của bạo quyền..
Về nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm " Quốc Kỳ Việt Nam " của tác giả Quốc Duy Nguyễn Văn An, thì quốc kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Phần : Gia Định, Biên Hòa và Định Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì không chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng và dùng son đỏ viết trên đỏ bốn đại tự ' Đại Nam Khâm Sứ '.Cũng từ đó, lá cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Đình Nhà Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm Bắc và Trung Phần.
Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại, ủy nhiệm lập Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới cho VN. Đó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ Ly (--)trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Đăng Đàn Cung làm Quốc Thiều.
Tháng 2-1946, D'Argenlieu được cử làm Cao Ủy Đông Dương, mục đích tái lập lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt Nhật đánh đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Để tiến tới ý đồ bất lương trên, thực dân mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lãnh thổ Pháp , đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc dân VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm đất đai của người Việt.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.
Nương theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính khách kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh xưng " Nam Phần VN ", để thay thế cái gọi là " Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị ", mà Pháp và bọn Việt Gian lúc đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đã chọn Quốc Ca - Quốc Kỳ cho cả nước.
Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác nhau : Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Đài và lá thứ năm của Phật Giao Hòa Hảo.
Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập, lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là chủ tịch, cùng các đại diện Đổ Quang Giai (Miền Bắc), Trần Văn Lý (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng hai đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài. Cuộc triển lãm năm mẫu cờ tại Phòng Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Uỷ Ban đã quyết định chọn Lá Cờ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ, làm Quốc Kỷ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.
Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Đại, đề cập tới trong tác phẩm " Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D'Annam) ", xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Đông Dương là Emile Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện tại đang trân quý trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn tim của triệu triệu người VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa thiên đàng.
Bởi vậy Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ý nghĩ khác biệt với Lá Cờ Máu của Cọng Sản VN, vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Dại tới Nguyễn Văn Xuân, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ hình thức tới nội dung là tài sản riêng của đệ tam cọng sản quốc tế, của Liên Xô, Trung Cộng và Việt Cộng. Đó cũng là lý do thiêng liêng mà người Việt qua mọi giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhân, dù hiện nay ngươi Việt quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.
Lá quốc kỳ VN là biểu tượng cao quý nhất trong linh hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai triệu người đất Bắc và các tỉnh miền Trung bên kia vỷ tuyến 17 vì công nhận lá cờ vàng ba sọc đó của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam tìm tự do dưới bóng lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi vì không sống nổi đưới lá cờ máu của đảng cọng sản, cho tới ngày nay, lập trường chính trị vẫn không hề thay đổi.
Lá Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang bằng 2/3 chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng nhau. Màu vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước mắt đoanh tròng, trong suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba phần của đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần ), giữ chức Giám Đốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân còn chấp nhận bài hát " Thanh Niên Hành khúc " của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca, vì lúc đó đương sự cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân đấu tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh.. nên tim-óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về hồn nước, hồn người. Đó cũng là lý do mà Chính phủ VNCH khi trước và Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài ' VN-VN của Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị dùng nó để thay thế bài hát của họ Lưu.
Cũng liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm " Việt Nam Nhân Chứng ", cựu tướng Trần Văn Đôn đã viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn Kim, là tác giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại. Nhưng sự xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không tin là sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Đôn cũng như Lê Văn Kim.. chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội Pháp , thì chừng nào mới tới phiên được mời vào phòng hội, để nghị sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao cấp của các giáo phái .. mới được mời họp với ý kiến và quyết định.
Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đã từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được sự thiêng liêng của lá cờ và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi xung trận.
Quốc kỳ VN như một ngọn đuốc, soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cọng sản đệ tam xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tị nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975, đã ngồi lại với nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Đó là cấp lãnh đạo tối cao nhất của Cộng Đồng VN Tị Nạn Hải Ngoại, hầu như từ truớc tới nay chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.
Có còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum, Bình Định.. Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá cờ lại đẳm thêm thịt xương, máu và nước mắt Lính.
Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của quốc gia, lên Kỳ Đài Huế trong Tết Mậu Thân, trền ngọn Đồi Đồng Long (An Lộc), Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị.. đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ NQ+DPQ, Bộ Binh, Biệt Động Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng.
Năm 1973, cọng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng quân trên lãnh thổ VNCH theo tinh thàn hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho người lính VNCH, lại phải chịu nhiều thương vong, dễ bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay cọng sản. Điều vinh hạnh nhất hiện nay tai hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành phần, giai cấp xã hội.. ai mà chẳng mơ ước được Cộng Đồng người Việt Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trên nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh không vướng bận.
Tám mươi lăm năm qua, người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với cọng sản nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên bốn mươi hai năm nay, kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự hứa hẹn của cọng sản, trừ bọn cò mồi không tim óc dù đã có cả núi bằng cấp và chữ nghĩa. Bởi vậy chỉ còn một cách duy nhất, là cả nước đứng dậy phá tan xiềng xích nô lệ của đảng cọng sản, để đòi lại những gì mà chúng ta đã mất, trong đó quan trọng nhất là quyền sống của kiếp người.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 1-2017
HỒ ĐINH
|
|
|
Post by DungCoThoO on May 31, 2018 13:02:38 GMT -6
VINH DANH CỜ VÀNG VIỆT NAM vì giá trị lịch sử và tính nhân bản.
Ý NGHĨA CỦA LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ VÀ BÀI “TIẾNG GỌI CÔNG DÂN”
Lê Duy San
Đã có cả hàng chục bài viết về lịch sử, ý nghĩa của Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (quốc kỳ của VNCH) và bài “Tiếng Gọi Công Dân” (quốc ca của VNCH) cùng nhiều bài tranh luận có nên treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và hát bài Tiếng Gọi Công Dân trong các buổi sinh hoạt cộng đồng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản hay không. Nhiều bài viết rất là công phu và giá trị như bài “Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam” của cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, nhưng chính giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng công nhận: “Viết bài này, tác giả chỉ có mục đích trình bầy một số dữ kiện lịch sử xác thật về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam…” Còn hầu như chưa có bài nào viết thật rõ ràng và ngắn gọn về ý nghĩa của Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân” để người Việt hiểu rỏ nhất là trong giai đoạn hiện tại và tại sao chúng ta, những người Việt hải ngoại tỵ nạn Cộng Sản cần phải tôn kính và vinh danh mỗi khi có dịp hội họp tại nơi công cộng.
1/ Lịch sử và ý nghĩa Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân” trước 1975.
a/ Lịch sử Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân”
Có thể nói, trước ngày quân đội Nhật lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương vào ngày 9/3/1945, Việt Nam chưa hề có quốc kỳ và quốc ca. Ngày 17/4/1945 chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, lá cờ Quẻ Ly (sọc vàng ở giữa đứt đoạn làm hai) được chấp nhận là quốc kỳ của Việt Nam. Có thể nói đây là lá cờ đầu tiên của Việt Nam. Nhưng trên thực tế, lá cờ này chỉ đại diện cho nhân dân Việt Nam 2 miền Bắc và Trung mà thôi vì nhà cầm quyền quân sự Nhật chưa chịu trả Nam Kỳ cho triều đình Huế . Mãi tới ngày 14/8/1945, tức sau khi chính phủ Nhật đã đầu hàng Đồng Minh được 4 ngày (ngày 10/8/1945) lá cờ quẻ ly mới thực sự đại diện cho cả 3 miền Bắc, Trung và Nam Việt Nam và bản Quốc Ca Việt Nam là bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông của Nhạc Sĩ Hùng Lân.
Thời gian tồn tại của lá quốc kỳ Quẻ Ly và bài quốc ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông qúa ngăn ngủi vì 5 ngày sau tức ngày 19/8/1945 chính phủ Trần Trọng Kim đã bị Việt Minh tức Hồ Chí Minh, tay sai của Cộng Sản đệ tam quốc tế cướp chính Quyền và quốc kỳ được thay thế bằng Cờ Đỏ Sao Vàng là cờ đảng của đảng Cộng Sản Việt Nam (1) và quốc ca được thay thế bằng bài “Tiếng Quân Ca “ của Văn Cao.
Sau khi cướp được chính quyền, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông Hồ Chí Minh đã ký Hiệp Định Sơ Bộ Pháp-Việt với Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, rước quân đội Pháp vào để rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia (2), ông Hồ Chí Minh mới mở cuộc chiến chống Pháp để giành chính nghĩa. Chiến tranh Việt (Việt Minh) Pháp bùng nổ vào ngày 19/12/46. Pháp chiếm hầu hết các thành phố của cả ba miền Trung Nam Bắc, Việt Minh phải rút ra hậu phương để kháng chiến. Sau hơn 2 năm đánh nhau với Việt Minh, người Pháp thấy không thể chiến thắng nên đã liên lạc với Hoàng Đế Bảo Đại để trao trả quyền độc lập cho VN nhưng vẫn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp (3). Ngày 2/6/1948, chính phủ lâm thời Việt Nam ra đời do tướng Nguyễn Văn Xuân chủ tọa, lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ do họa sỉ Lê Văn Đệ đề nghị được chấp nhận làm quốc kỳ và lấy bài Tiếng gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước (4) được đổi tên là Tiếng Gọi Công Dân đã được chập nhận làm quốc ca của quốc gia Việt Nam.
Ngày 7/7/1954, Ông Ngô Đình Diệm về nước thành lập chính phủ và lập nên nền đệ Nhất Cộng Hòa VN. Quốc Hội Lập Hiến VNCH năm 1956 đã quyết định giữ lại bài Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng lời được đổi lại như sau:
Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.
Ðồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống!
Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm trí,
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Ðiệp khúc)
Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống
Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.
Có nhiều người chỉ trích việc dùng bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước là một người theo Cộng Sản. Thực ra thì bài Tiếng Gọi Công Dân chỉ mượn Nhạc, còn Lời thì đã thay đổi gần như khác hẳn. Hơn nữa, khi làm bài Tiếng Gọi Thanh Niên, Lưu Hữu Phước chỉ là một sinh viên với lòng yêu nước nhiệt thành, ông chưa hề gia nhập một đảng phái nào, kể cả đảng Cộng Sản Việt Nam.
b/ Ý nghĩa Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân”.
Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thì:
” …quan niệm cổ của dân tộc Việt Nam, màu vàng thuộc hành thổ và màu đỏ thuộc hành hỏa và vì hỏa sanh thổ nên hai màu này rất hợp với nhau. …, ba sọc đỏ nhỏ như những tia nắng rọi xuống một mặt đất rộng rãi làm cho mặt đất này ấm áp và có điều kiện thuận lợi cho cây cỏ mọc lên được”.
“…nền vàng tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam nói chung và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba kỳ. Vậy, ba sọc đỏ nằm trên nền vàng hàm ý là nước Việt Nam gồm cả ba kỳ và dân tộc Việt Nam gồm người của cả ba kỳ”.
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân không những là Quốc Kỳ và Quốc Ca của Việt Nam mà còn là biểu tượng cuả một nước có tự do và dân chủ và đã được tất cả các nước trên thế giới trong khối tự do dân chủ công nhận. Còn Cờ Đỏ Sao Vàng và bài Tiến Quân Ca chỉ được những nước độc tài chuyên chính trong khối Cộng Sản công nhận mà thôi.
Trong gần 30 năm, từ 1948 đến 1975, người dân VN tự do cũng như người lính VNCH chống Cộng Sản Việt Nam đã hy sinh không biết bao xương máu không phải là để bảo vệ cho một chủ nghĩa hay một chủ thuyết nào mà chỉ là để bảo vệ cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam. Vì thế ngọn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân không những là biểu tượng cho quốc kỳ và quốc ca của Việt Nam mà còn là biểu tượng cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, cho nguyện vọng tốt đẹp của quốc gia, dân tộc. Biểu tượng Cờ Đỏ Sao Vàng và bài Tiến Quân Ca của Việt Cộng trái lại, nó là biểu tượng chủ nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa tam vô: vô tổ quốc, vô tôn giáo, vô gia đình, và học thuyết Mác Lê, một học thuyết chuyên chính vô sản. Bởi vậy những kẻ chiến đấu dưới lá Cờ Đỏ Sao Vàng, dưới bài Tiến Quân Ca không phải là chiến đấu cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, cho quốc gia dân tộc mà là chiến đấu cho đảng Cộng Sản, cho chủ nghĩa Mác Lê.
2/ Tại sao phải tôn kính và vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân”.
a/ Để nêu cao chính nghĩa của người Việt quốc gia.
Năm 1954, gần một triệu người miền Bắc VN đã phải bỏ hết cả nhà cửa ruộng vườn chạy trốn Việt Cộng để di cư vào Nam với 2 bàn tay trắng cũng chỉ vì muốn được hưởng tự do, dân chủ và nhân quyền của chính quyền miền Nam Việt Nam tức chính quyền quốc gia VN mà biểu tượng là lá cờ Vàng với ba sọc đỏ.
Suốt 20 năm cuộc chiến VN từ 1954 tới 1975, Việt Cộng mà biểu tượng là lá cờ máu (đỏ) với ngôi sao vàng đi tới đâu là đồng bào VN chạy khỏi đó và tìm tới vùng có lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tức vùng quốc gia để được bảo vệ và che chở. Hàng triệu quân dân cán chính của VNCH đã phải bỏ mình cũng vì để bảo vệ cho lá cờ Vàng ba sọc đỏ tức bảo vệ cho người dân miền Nam VN được Tự Do, Dân Chủ và có Nhân quyền
Năm 1975, Việt Cộng xóa bỏ Hiệp Định Ba Lê và cưỡng chiếm miền Nam, lại một lần nữa, hơn một triệu người Việt bỏ hết cả tài sản, nhà cửa, ruộng vườn ra đi với 2 bàn tay trắng để tìm tự do và trong số này cũng có tới vài trăm ngàn người đã chìm xâu dưới lòng đại dương cũng vì 2 chữ tự do.
b/ Để giữ vững căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản
Sau năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng Hoà không còn, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cũng như bài Tiếng Gọi Công Dân không còn là biểu tượng cho Quốc Kỳ và Quốc Ca của nước Việt Nam nữa. Nhưng trong lòng mọi người, dù đã bỏ nước ra đi hay hãy còn ở lại trong nước, Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân vẫn là biểu tượng của Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền.
Chúng ta bỏ nước ra đi vì không muốn sống dưới chế độ tàn ác, phi nhân của Cộng Sản Việt Nam. Các quốc gia tự do trên thế giới nhận cho chúng ta nhập cư cũng vì tư cách tị nạn chính trị của chúng ta.Vì thế, là người Việt tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta cần phải bảo vệ tư cách này bằng cách tôn kính và vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (quốc kỳ VNCH) và bài Tiếng Gọi Công Dân (quốc ca VNCH) mỗi khi có dịp hội họp tại nơi công cộng.
c/ Để phân biệt rõ ràng làn ranh Quốc Cộng.
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân không những là biểu tượng lý tưởng của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, không những là căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng sàn, nó còn là biểu tượng để phân biệt rõ ràng làn ranh Quốc Gia và Cộng Sản. Một buổi họp có tính công cộng mà không treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, không hát bài Tiếng Gọi Công Dân thật khó lòng biết rõ đó là buổi họp của người quốc gia hay của bọn Cộng Sản.
Bởi vậy, là người Việt tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta tuyệt đối không những không tham dự những buổi họp công cộng không có treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và hát bài Tiếng Gọi Công Dân mà còn có bổn phận phải tẩy chay và thông báo cho mọi người biết để xa lánh.
Trên thế giới nhiều nước đã ra nghị quyết vinh danh Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của người Việt tỵ nạn Cộng Sản, nhất là tại Hoa Kỳ. Trong bài “Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam” cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nói: “ Hiện nay, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không còn được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng nó là lá cờ tượng trưng cho nền độc lập và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ cộng sản tàn ác, phi nhơn và nô lệ ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống lại Cộng Sản. Không biểu tượng nào khác có thể thay thế cờ vàng ba sọc đỏ về các mặt này. Vậy, việc tỏ lòng tôn trọng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và dùng nó một cách rộng rãi ở nơi nào có người quốc gia Việt Nam là một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước khỏi ách Cộng Sản”.
Tóm lại, mặc dầu Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ cũng như bài Tiếng gọi Công dân, kể từ 30/4/1975, không còn là biểu tượng quốc kỳ và quốc ca của Việt Nam nữa, nhưng đối với người Việt tỵ nạn Cộng sản, nó vẫn biểu tượng cho tự do, dân chủ, nhân quyền, cho căn cước của người Việt tỵ nạn Cộng Sản. Nó là bằng chứng để phân biệt người quốc gia với người Cộng Sản.
Không phải chỉ có người Việt tỵ nạn Cộng Sản, những miền Nam, đã sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà và được hưởng những ân huệ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới trân qúy, bảo vệ và mong muốn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ có ngày lại đại diện cho nước Việt Nam, mà ngay cả những người sinh ra dưới chế độ Cộng Sản và được dậy dỗ bởi Cộng Sản cũng mong muốn Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ sẽ có ngày tung bay khắp vùng trời Việt Nam. Trong bài “Còn Cờ Đỏ Sao Vàng Thi Không Bao Giờ Có Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” đăng trong tờ báo chui trong nước, tờ “Báo Sinh Viên Yêu Nước”, tác giả Lê Trung Thành, một sinh viên du học tại Đài Loan nói “lá cờ vàng ba sọc đỏ chắc chắn sẽ lại tung bay ngạo nghễ trên quê hương Việt Nam”.
Mọi sự lạm dụng cũng như khinh thường Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và bài Tiếng Gọi Công Dân của những kẻ vô ý thức cần phải được kết án nghiêm khắc.
Lê Duy San
Chú thích.
(1) Thực ra thì cờ đảng của đảng Cộng Sản Việt Nam cũng là lá cờ Búa Liềm như cờ của Cộng Sản Nga, Cộng Sản Tầu. Nhưng vì muốn lưà gạt nhân dân và các đảng phái quốc gia nên chúng chọn Cờ Đỏ Sao Vàng. Khi cướp được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim, chúng đã áp đặt lá cờ Đỏ Sao Vàng thành quốc kỳ VN.
(2) Hiệp định bao gồm các điểm chính sau đây:
Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng
Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3000 quân.
(3) Ngày 8/6/1948 trên một chiến hạm bỏ neo tại Vịnh Hạ Long, Cao ủy Bollaert, đại diện chính phủ Pháp và Nguyễn Văn Xuân thủ tướng Chính phủ Trung ương Quốc Gia Lâm thời đã ký thỏa ước Vịnh Hạ Long. Pháp nhìn nhận VN độc lập và tự do thực hiện sự thống nhất quốc gia. Đến ngày 8/3/1949, tại Dinh tổng thống Pháp (Điện Elysée) cựu hoàng Bảo Đại và TT Vincent Auriol ký Hiệp ước Elysée. Pháp chính thức nhìn nhận VN là một quốc gia độc lập thống nhất thuộc khối Liên Hiệp Pháp (Vũ Quốc Thúc, “Thời Đại Của Tôi”)..
(4) Bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước như sau:
Này sinh viên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi! Ðồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối. Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên, Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn! Hồn thanh xuân như gương trong sáng, Ðừng tiếc máu nóng, tài xin ráng! Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta, Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá. Ðường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương, Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường. (Ðiệp khúc) Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng! Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng! Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống! Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng! Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá! Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá! Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn, Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn. Hồ Tây tranh phong oai son phấn, Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn. Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam, Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám. Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên, Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền. (Trở lại điệp khúc) Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng, Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng! Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông, Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng. Là sinh viên vun cây văn hoá, Từ trước sẵn có nhiều hoa lá. Ðời mới kiến thiết đáp lòng những ai Hằng mong ta ra vững cầm tay lái. Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời! (Trở lại điệp khúc)
|
|
|
Post by DatNuocConHayMat on Jun 21, 2018 11:40:52 GMT -6
BÀI HỌC CHO THUÊ ĐẤT TỪ UKRAINE
Không có văn bản thay thế tự động nào.
Bài học từ Ukraine mà VN phải học cho kỹ !
Năm 1997, bán đảo xinh đẹp Crimea được Ukraine cho Nga thuê làm quân cảng ở thành phố Sevastopol, thuộc Crimea trong 20 năm.
Đáng lý ra, Nga phải trao trả lại cho Ukraine vào năm 2017 vừa qua.
Nhưng bản chất của kẻ xâm chiếm độc tài Putin Đại Đế, đã âm thầm mua chuộc chính phủ bù nhìn, đứng đầu là tổng thống Viktor Yanukovych.
Thế là tháng 4/2010 Chính phủ Ukraine lại ký gia hạn đến năm 2047.
Nắm bắt được được cơ hội này, Nga ồn ạt đưa khí tài và lực lượng quân sự sang, và kèm làn sóng di cư ồ ạt.
Kết quả là chưa đến năm 2047, vào đúng năm 2014, Nga tuyên bố Crimea là lãnh thổ thuộc Nga thông qua một cuộc trưng cầu dân ý do Nga tổ chức, trái với luật pháp quốc tế. Vì hơn 90% dân số nói tiếng Nga ở đây, nên khi trưng cầu dân ý, đồng nghĩa với việc sáp nhập vào Nga.
Nga lập tức cho thành lập chính phủ ở đây. Phương Tây phản đối ầm ầm, Ukraine kêu gào giãy giụa,Tổng thống thân Nga, Viktor Yanukovich chạy trốn tị nạn sang chính Nga, quốc gia đang xâm chiếm và dùng cộng đồng người nói tiếng Nga để gây nội chiến tại quốc gia mình. Nhưng là vị thế nước yếu bên cạnh gấu Nga hùng cường, Ukraine đành bó tay!
Cuối cùng, Putin lên truyền thông tỏ bày; “Crimea nên về với đất mẹ”!
Ukraine cay đắng mất đi phần đất có vị thế địa chính trị quan trọng và không lấy lại được Crimea nữa. Putin Đại Đế chỉ cần có 4 năm thôi, đã chiếm được Crimea ngon lành!
Nghĩ lại Việt Nam, cho dù lùi thời hạn thuê đất từ 99 năm xuống 70 năm hay 50 năm hoặc ít hơn đi nữa. Thì hãy mở to mắt ra mà nhìn bài học nhãn tiền của Ukraine và Nga.
Mà Tập Cận Bình thì khỏi phải nói, còn gian manh, ác độc, nham hiểm, liều lĩnh gấp chục lần Putin!
Theo Peter Thanh
Luan Le Quang
|
|
|
Post by Suu Tam on Jul 11, 2018 7:05:26 GMT -6
"Đàn ông mà không biết đến chính trị xã hội mà chỉ biết ăn rồi ngủ, chăm chăm nhìn mông ngực đàn bà thì khác nào con thú"
Kaiser Wong
|
|
|
Post by From Vietbf forum on Jul 26, 2018 8:46:21 GMT -6
Mesut Ozil is very courage to quit Germany National Soccoer team. This is a good lesson for us to learn.
"Giống như rất nhiều người, gia đình tôi không chỉ liên quan đến một đất nước. Tôi lớn lên tại Đức, nhưng tổ tiên tôi là người Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi có 2 trái tim, một cho Đức và một cho TNK. Hồi nhỏ, mẹ thường dạy tôi phải trân trọng và không được quên nguồn gốc, đó là những điều theo tôi đến tận bây giờ".
Bị ngược đãi Mesut Ozil viết tâm thư đầy nước mắt trước khi từ giã đội tuyển ĐỨC. Ai cũng biết rằng đội bóng đá Đức đã kết thúc 1 mùa worl Cup đầy thất vọng. Thế nhưng mọi chuyện chưa dừng lại ở đó bởi truyền thông và những người làm bóng đá Đức bắt đầu lôi Mesut Ozil ra làm "vật tế thần". Dù là người đóng vai trò quan trọng trong việc đưa đội Đức lên chức vô địch TG năm 2014 nhưng Mesut Ozil đang bị họ ngược đãi...Từ người hùng World Cup và được coi như nhạc trưởng của ĐT Đức, tiền vệ Mesut Ozil gần như mất tất cả chỉ trong vài tháng.Trong ngày công bố quyết định từ giã ĐT Đức, Mesut Ozil đã viết một bức tâm thư bày tỏ rất nhiều suy nghĩ và tiết lộ những điều gây bất ngờ. Chúng tôi xin được dịch và đăng tải:
I. Gặp gỡ Tổng thống Erdogan
Vài tuần vừa rồi là thời gian để tôi suy nghĩ, xem xét lại các sự kiện xảy ra trong vài tháng qua. Tôi muốn chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của mình về mọi chuyện.
Giống như rất nhiều người, gia đình tôi không chỉ liên quan đến một đất nước. Tôi lớn lên tại Đức, nhưng tổ tiên tôi là người Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi có 2 trái tim, một cho Đức và một cho TNK. Hồi nhỏ, mẹ thường dạy tôi phải trân trọng và không được quên nguồn gốc, đó là những điều theo tôi đến tận bây giờ.
Tháng 5 vừa rồi, tôi gặp Tổng thống TNK Erdogan tại London, trong một sự kiện dành cho từ thiện và giáo dục. Chúng tôi gặp nhau lần đầu hồi năm 2010, sau khi ông và Thủ tướng Merkel cùng xem trận đấu giữa Đức và TNK ở Berlin. Kể từ lần đó, chúng tôi gặp lại nhau vài lần ở nhiều nơi trên thế giới.
Tôi ý thức được rằng bức ảnh giữa chúng tôi sẽ khiến truyền thông Đức nổi sóng, và trong khi nhiều người nói tôi dối trá, thì tôi phải khẳng định lại rằng bức ảnh không hề có chút ý đồ chính trị.
Thành tích của Ozil với ĐT Đức:
92 trận
23 bàn thắng
5 lần đoạt danh hiệu Cầu thủ Đức xuất sắc nhất năm
1 chức vô địch World Cup (2014)
Như tôi đã nói, mẹ tôi không bao giờ muốn tôi quên đi gốc gác, truyền thống của gia đình. Với tôi, bức ảnh cùng Tổng thống Erdogan không liên quan đến chính trị hay bầu cử, nó đơn giản là sự tôn trọng dành cho người đứng đầu đất nước của tổ tiên tôi.
Tôi là một cầu thủ, không phải chính trị gia, cuộc gặp giữa chùng tôi không dính dáng gì đến chính trị. Trên thực tế, tôi và ngài tổng thống nói chuyện về chủ đề mà chúng tôi vẫn luôn bàn luận: bóng đá, khi còn trẻ ông ấy cũng là một cầu thủ.
Mặc dù báo chí Đức cố miêu tả khác đi, sự thật là nếu tôi không gặp ngài tổng thống thì tôi sẽ là kẻ thiếu tôn trọng tổ tiên mình, những người mà tôi biết rằng sẽ tự hào về những gì tôi đã làm.
Tôn trọng lẫu nhau là điều mà tôi tin chắc Nữ hoàng Anh và Thủ tướng Theresa May thể hiện khi đón tiếp ông Erdogan tại London. Kể cả đó là Tổng thống TNK hay Đức, cách hành xử của tôi cũng sẽ không khác nhau.
Tôi biết sẽ rất khó để mọi người hiểu, trong hầu hết nền văn hóa, mọi người đánh đồng vị trí lãnh đạo nhà nước với người đang đương nhiệm. Nhưng trường hợp này thì khác. Dù cho kết quả cuộc bầu cử vừa diễn ra hay trước đó nữa thế nào, tôi vẫn sẽ chụp bức ảnh đó.
II. Truyền thông và các nhà tài trợ
Tôi biết tôi là cầu thủ đã chơi tại 3 giải VĐQG được coi là khắc nghiệt hàng đầu thế giới. Tôi may mắn nhận được sự ủng hộ từ đồng đội và BHL tại Premier League, La Liga và Bundesliga. Và trong suốt sự nghiệp, tôi đã học được cách thỏa hiệp với truyền thông.
Rất nhiều người nói về phong độ của tôi – khen nhiều, mà chê cũng nhiều. Nếu một tờ báo tìm thấy một sai sót của tôi trong trận đấu, tôi chấp nhận, tôi không phải cầu thủ hoàn hảo và sẽ phải làm việc chăm chỉ hơn nữa.
Nhưng điều tôi không thể chấp nhận là cái cách mà truyền thông Đức nhai đi nhai lại về việc tôi là người mang 2 quốc tịch và coi tôi như biểu tượng thất bại.
Báo chí Đức dùng gốc gác của tôi và bức hình cùng Tổng thống Erdogan như một vũ khí tuyên truyền về chính trị. Tại sao họ dùng tên tôi, ảnh tôi trên những trang bìa nói về thất bại trên đất Nga?
Họ không chỉ trích phong độ của tôi, không chỉ trích phong độ của toàn đội, họ chỉ đâm chọc nguồn gốc TNK của tôi và cố tôn lên những gì nước Đức mang lại cho tôi. Nói cách khác, họ cố lôi cả nước Đức chống lại tôi.
Một điều nữa làm tôi thất vọng là tiêu chuẩn kép. Lothar Matthaus (một người từng làm đội trưởng ĐT Đức) gặp một nhà lãnh đạo vài ngày sau, chẳng ai thèm nói một lời cả.
Nếu truyền thông cảm thấy tôi nên bị đuổi khỏi ĐT Đức, vậy ông ta có nên bị tước danh hiệu đội trưởng danh dự không? Hay vì dòng máu TNK, tôi trở thành mục tiêu đáng giá hơn?
Mới đây, tôi có kế hoạch về thăm lại trường cũ tại Đức cùng 2 đối tác từ thiện. Tôi tổ chức một dự án cho trẻ nhập cư, trẻ em nghèo và những đứa trẻ khác chơi bóng cũng như học các quy tắc xã hội.
Thế nhưng, vài ngày trước chuyến đi, tôi bị 2 "đối tác" đó bỏ bom, không ai muốn đi cùng tôi nữa. Cay đắng hơn, ngôi trường cũ cũng nói rằng họ không cần tôi xuất hiện lúc này vì sợ truyền thông. Tôi cảm thấy vô cùng tổn thương, thấy mình thật vô dụng, vô giá trị với ngôi trường.
Một nhà tài trợ của LĐBĐ Đức cũng đồng thời hủy bỏ mọi hình ảnh của tôi trong video quảng cáo sản phẩm dịp World Cup 2018. Họ gọi đó là động thái "xử lý khủng hoảng". Tôi biết sản phẩm của họ thời điểm đó có những thành phần bất hợp pháp, gây nguy hiểm cho khách hàng và bị một bộ trưởng Đức vạch trần.
LĐBĐ Đức chọn cách chỉ trích tôi và không hề yêu cầu nhà tài trợ kia phải giải trình chút nào. Tại sao lại vậy? Hay là chuyện tôi chụp ảnh với tổng thống đất nước của tổ tiên mình nghiêm trọng hơn việc hàng trăm nghìn sản phẩm của nhà tài trợ bị buộc thu hồi?
Vẫn có những nhà tài trợ sát cánh với tôi trong thời điểm khó khăn. Cùng nhau, chúng tôi giúp đỡ nhiều trẻ em tại Nga, như đã từng làm tại Brazil và Nam Phi. Vậy nhưng, truyền thông không nhìn thấy điều đó, họ thích nhắc đi nhắc lại tấm ảnh kia hơn.
III. LĐBĐ Đức
Điều khiến tôi cảm thấy giận dữ nhất vài tháng qua là thái độ ngược đãi từ LĐBĐ Đức, cụ thể là Chủ tịch Reinhard Grindel. Sau bức ảnh với Tổng thống Erdogan, HLV Joachim Loew bắt tôi cắt ngắn kỳ nghỉ, về Berlin để cùng đưa ra một thông báo chung nhằm chấm dứt sự việc.
Trong khi tôi cố gắng giải thích về nguồn gốc, tổ tiên, truyền thống gia đình mình, Grindel lại chỉ nói về quan điểm chính trị của ông ta, coi thường mọi lời nói từ tôi.
Cuối cùng, chúng tôi đi đến quyết định chỉ tập trung vào bóng đá và World Cup. Đó là lý do tôi vắng mặt trong cuộc gặp gỡ truyền thông trước World Cup. Tôi biết các phóng viên sẽ tấn công tôi với những câu hỏi về chính trị dù Bierhoff đã yêu cầu họ dừng lại.
Cũng trong thời gian đó, tôi gặp Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier. Không giống như Grindel, ngài tổng thống rất cởi mở và tỏ ra hứng thú khi nghe tôi kể về gia đình, tổ tiên mình. Tôi vẫn nhớ cuộc gặp có ngài tổng thống, tôi, Gundogan và Grindel ngạc nhiên khi không được phép mở miệng nói về quan điểm chính trị của ông ta.
Cho đến khi World Cup khép lại, Grindel chịu nhiều áp lực vì những quyết định đưa ra trước giải. Gần đây, ông ta lại một lần nữa yêu cầu tôi giải thích về thái độ thi đấu và trút hết tội lỗi lên đầu tôi. Mới lúc đội tuyển về Berlin, ông ta còn nói riêng với tôi rằng mọi chuyện dù sao cũng qua rồi.
Tôi sẽ không đóng vai một vật tế thần cho sự thiếu năng lực trong công việc của Grindel nữa. Tôi biết ông ta muốn đuổi tôi khỏi đội tuyển sau bức ảnh kia và còn công khai thể hiện quan điểm trên mạng xã hội mà không suy nghĩ đến hậu quả. Nhưng HLV Joachim Loew và Bierhoff đứng bên và ủng hộ tôi.
Trong mắt Grindel và những kẻ ủng hộ ông ta, tôi là người Đức khi đội tuyển thắng, và là một thằng nhập cư khi đội tuyển thất bại. Tôi không được chấp nhận, dù trả tiền thuế ở Đức, quyên góp xây trường học ở Đức, vô địch World Cup cùng ĐT Đức. Tôi bị ngược đãi vì "khác biệt".
Tôi nhận giải thưởng Bambi năm 2010 vì là hình mẫu về sự hòa nhập trong xã hội Đức, tôi nhận giải Vòng nguyệt quế bạc năm 2014 (giải thưởng cao nhất về thể thao tại Đức), tôi là Đại sứ bóng đá Đức năm 2015. Và rồi, tôi vẫn không phải người Đức?
2 người bạn Klose và Podolski của tôi chưa bao giờ bị giới thiệu là người Đức gốc Ba Lan. Vậy sao người ta luôn nhấn mạnh tôi là người Đức gốc Thổ? Vì đó là TNK? Vì đó là hồi giáo? Tôi sinh ra và được giáo dục ở Đức. Vậy tại sao họ không coi tôi là người Đức?
Những người cùng ý tưởng với Grindel có ở khắp nơi. Tôi từng bị Bernd Holzhauer (một chính trị gia Đức) gọi là "kẻ làm chuyện ấy với dê" khi biết tôi chụp ảnh với ông Erdogan ("kẻ làm chuyện ấy với dê": một cách gọi sỉ nhục người hồi giáo nhập cư tại Đức). Werner Steer, Giám đốc nhà hát Đức, từng bảo tôi hãy đi tiểu vào Anatolia (Tiểu Á), nơi xuất phát của nhiều người nhập cư.
Những kẻ này nhìn tấm hình của tôi và ông Erdogan như một cơ hội để biểu lộ sự phân biệt chủng tộc to lớn luôn ẩn giấu, điều này nguy hiểm cho xã hội. Họ chẳng khác nào các khán giả Đức mắng chửi tôi trong trận gặp Thụy Điển kiểu như "Ozil, thằng người Thổ, biến đi". Đó là còn chưa kể vô số cuộc gọi, thư điện tử và bình luận tồi tệ trên mạng xã hội tôi và gia đình phải đón nhận.
Những kẻ đó tôn vinh một nước Đức của quá khứ đã qua, một nước Đức không mở cửa với các nền văn hóa khác. Tôi tin rằng rất nhiều người Đức cởi mở với thế giới sẽ đồng ý với tôi.
Về phần ông, Reinhard Grindel, tôi thất vọng nhưng không quá bất ngờ về ông đâu. Ông đã từng có những hành động chống lại những người đa quốc tịch và còn lo tỏ vẻ sợ đạo hồi phát triển quá mức ở Đức. Điều đó là không thể chấp nhận và sẽ không bị lãng quên đâu.
Một kẻ phân biệt chủng tộc như thế không được phép làm việc tại LĐBĐ lớn nhất thế giới và có rất nhiều cầu thủ đa quốc tịch mới phải.
Những sự đối xử tệ hại mà tôi phải nhận từ LĐBĐ Đức thúc giục tôi đưa ra quyết định từ giã ĐT Đức. Tôi cảm thấy mình không được đón nhận và những đóng góp của tôi từ năm 2009 đến nay đã bị người ta quên sạch
Tôi từng mặc chiếc áo ĐT Đức với niềm tự hào to lớn, nhưng bây giờ không còn nữa. Quyết định này vô cùng khó khăn, vì tôi luôn hết mình với đồng đội, BHL và những người Đức biết cảm thông.
Nhưng khi các quan chức LĐBĐ Đức ngược đãi tôi, xúc phạm nguồn gốc TNK của tôi và lôi tôi vào với mục đích chính trị, tôi sẽ không ngồi yên bởi đó không phải là lý do tôi chơi bóng. Phân biệt chủng tộc sẽ không bao giờ được chấp nhận.
|
|
|
Post by 2T on Jul 28, 2018 14:38:02 GMT -6
Thưa các bạn, Nếu trái tim các bạn còn hướng về một tương lai tươi đẹp cho Việt Nam. Thì tôi mong rằng các bạn đừng có thờ ơ với chính trị. Tiền bạc các bạn làm ra có mất đi thì các bạn còn kiếm lại được. Còn đất nước Việt Nam mà mất đi. Thì chúng ta có lấy lại được không? Câu chuyện này mới chỉ là một trong những câu chuyện tang thương của những người vượt biển vào những năm sau 1975. Còn nhiều câu chuyện cũng thê thảm không kém gì như hải tặc Thái ở đảo Ko Kra và tôi là một trong những người có mặt trên đảo này trên đường đi vượt biên 1979. www.refugeecamps.net/KKStory.htmlThân mến, 2T Đứa con lai… hải tặc. (Nguyễn Cát Thịnh) Kính gửi nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự, Một người bạn chung của ông và tôi đã kể cho ông câu chuyện về đứa con lai… hải tặc. Thưa ông, tôi không phải là nhân vật chính nhưng đúng là người trong cuộc. Bạn của chúng ta đã cung cấp cho ông đủ tư liệu, hy vọng ông-một nhà văn đã thành danh-sẽ đóng góp thêm một tác phẩm vào tủ sách văn học tỵ nạn. Thay vì, ông lại khuyến khích tôi phím bàn trước khi ông có hứng khởi ngồi vào bàn phím. Vâng! Cám ơn nhã ý của ông. Tôi xin cố gắng phiếm bàn dưới dạng truyện ngắn để bổ sung những chi tiết cho tác phẩm tương lai của ông. *** Xong tú tài, tôi vào Saigon cư ngụ trong đại học xá Minh Mạng Chợ Lớn để tiếp tục việc học. Sau này có một anh sinh viên dự bị y khoa được xếp chung phòng. Khi ra trường phải động viên vào quân đội, tôi nhường anh chân gia sư dạy kèm hai học sinh trung học, một trai một gái. Họ là con của một ông Trung Tá bộ tổng tham mưu và bà chủ một công ty nhập cảng vải lụa. Cuộc biển dâu xảy ra. Tôi và ông Trung Tá đều bị nhập trại “tập trung học tập cải tạo”. Tôi “học tập” một thời gian không dài lắm, có lẽ vì cấp bậc nhỏ “ít nợ máu”. Ông Trung Tá bị chuyển ra trại tù miền Bắc. Được trả tự do nhưng không việc làm, lê lết ở các quán cà phê vỉa hè, một ngày nọ tình cờ gặp lại bạn. Bấy giờ anh đã là bác sĩ tại một bệnh viện thuộc quận nhất của thành phố. Và câu chuyện bắt đầu từ đây. Chuyện kể, khi cô học trò nhỏ không còn nhỏ nữa thì quan hệ giữa cậu cựu gia sư và tiểu thư tân sinh viên văn khoa đã bước vào giai đoạn anh anh-em em (âu cũng là điều dễ hiểu). Gia đình cả hai bên đều hoan hỉ, trông đợi ngày đại đăng khoa và tiểu đăng khoa. Thế nhưng thời cuộc đã đảo lộn tất cả. Ông Trung Tá đi không biết ngày về. Bà Trung Tá mất cơ sở kinh doanh. Cậu con trai lớn tìm lãng quên trong những con hẻm nhầy nhụa. Tiểu thư tuy vẫn còn đậm nét tiểu thư nhưng chớm trầm cảm vì cuộc sống đã nhuộm đỏ giấc mơ hồng. Cậu bác sĩ chung tình đeo thêm gánh nặng phiền muộn. Rồi phong trào vượt biển rầm rộ khắp nơi. Trong lần đi thăm nuôi cuối cùng, bà Trung Tá đưa tiểu thư và cậu bác sĩ ra tận trại tù Hoàng Liên Sơn dò hỏi ý chồng. Ông Trung Tá bỗng trở nên lạc quan sau những năm tháng tuyệt vọng. Ông biết sức khỏe và bệnh trạng của ông, biết ngày tàn không còn xa. Ông không những đồng ý với vợ mà còn mong vợ phải thực hiện chuyến đi cho các con bằng mọi giá. Bà đã được cha mẹ cậu bác sĩ thuận kết sui gia. Nhân tiện gặp ông, bà và ông tác thành luôn cho đôi trẻ. Đối với cả hai gia đình, họ đã nên duyên vợ chồng. Ông xin các con hứa, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, lúc vui buồn hay lúc cùng cực cũng phải gắn bó, không được chối bỏ nhau. Đôi trẻ kín đáo cúi đầu quỳ lạy thay lời thề chung thủy. Bạn tôi cùng vợ và người anh vợ đăng ký chuyến đi bán chính thức của người Hoa. Khi ra đến bến bãi một sự việc diễn ra ngoài dự tính của nhóm tổ chức. Chỉ những người Hoa chính gốc mới được nhận. Người Hoa giả mạo bị loại ra. Chủ tàu là một đại gia có mẹ già mang bệnh kinh niên nên cần thầy thuốc. Hắn hối lộ để xin đặc ân cho hai vợ chồng bạn tôi nhưng họ chỉ chấp nhận một người. Dùng dằng mãi, cuối cùng một mình bạn tôi lên tàu. Chuyến hải hành tương đối êm ả đưa người chồng đến đảo Bidong Mã Lai. Người anh vợ và người vợ trở về buồn hiu hắt. Anh may mắn được gia đình một luật sư làm việc trong chính quyền tiểu bang Michigan bảo lãnh qua Mỹ. Sau hơn 2 năm ôn luyện bài vở, anh được nhận vào nội trú để hoàn tất bằng hành nghề. Người vợ đi thêm hai chuyến nữa không thành công. Chuyến sau cùng chủ tàu gọi đi khẩn cấp. Người anh trai còn mải vui chốn giang hồ không kịp nhận tin, đành đi chuyến sau. Tôi đến chơi đúng thời điểm. Bà Trung Tá cho tôi trám chỗ, đồng hành với vợ người bạn. Đâu có ai ngờ một chuyến đi định mệnh đang chờ đợi! Con tàu chạy vòng vo hai ngày ba đêm vẫn chưa nhìn thấy đất đảo như hoạch định. Tàu trôi, trôi như vô tận. Tài công thú nhận không có kinh nghiệm lái đường biển. Buổi trưa, vừa nhai xong một nhúm cơm và uống một nắp nước do tàu cấp phát thì mọi người dưới hầm nghe nhiều tiếng chạy thình thịch náo động trên boong tàu. Qua kẽ hở, biết tàu đã bị hải tặc xâm chiếm không biết từ lúc nào. Họ hoàn toàn làm chủ tình hình. Trong vòng một tiếng đồng hồ không gặp kháng cự, những tên hải tặc đã đủ thì giờ lục lọi tìm kiếm vàng bạc và giở trò khả ố với những đàn bà con gái nằm la liệt trên sàn tàu mà trước đó đã được ưu tiên dời lên vì kiệt sức. Sau khi đã chiến thắng được sự sợ hãi tột cùng ban đầu, một số thanh niên còn khỏe mạnh họp lại tính chuyện phản công. Đám hải tặc vẫn còn e dè, chặn cửa hầm chưa dám xuống. Để chiến đấu, mỗi người tự trang bị vũ khí cho mình. Với kìm búa gậy sắt gậy gỗ, họ phá bật nắp cửa hầm, reo hò vùng lên quyết sinh tử khiến đám hải tặc rúng động. Biết không địch nổi số đông áp đảo, không đợi lệnh, các tên hải tặc chen nhau nhảy xuống biển bơi về tàu của chúng, xả máy rút lui. Tôi cố tìm nguời vợ của bạn. Một tên hải tặc mang vết sẹo dài trên vai trái bước ra từ phòng lái đầu hàng. Nhận diện cô gái trong phòng nằm trên tấm nệm cao su vẫn còn loã thể chính là người tôi tìm. Một tên nữa cũng chậm chân nên bị bắt giữ vì còn mải nhập thiên thai. Tên có sẹo có lẽ là đầu đảng, xá lạy xin đái công chuộc tội bằng cách hướng dẫn tài công lái đúng đường, cặp vào đảo Tarempa Nam Dương. Chính quyền địa phương đưa tàu qua đảo Kuku tạm trú. Một tháng sau được chuyển sang đảo Galang. Chút vốn liếng tiếng Anh sót lại từ thời trung học giúp tôi tìm được một việc làm trong văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Có cơ hội thuận tiện, tôi tường trình trung thực những gì đã xảy ra. Ngoại trừ những người bị nhốt dưới hầm, tất cả đàn ông đều bị trói gô chân tay. Một phụ lái bị giết chết vì kháng cự. Chủ tàu bị ném xuống biển vì cố che chở cho con gái nhỏ sắp bị hãm hiếp. Hai phụ nữ hoảng hốt nhảy xuống biển tự vận để bảo toàn trinh tiết. Mười một phụ nữ trẻ bị liên tục thay phiên hãm hiếp, riêng người vợ của bạn tôi được tên đầu đảng giành độc quyền. Một nam thanh niên trượt chân rơi xuống biển và năm thanh niên khác bị thương khi chiến đấu. Hai hải tặc bị bắt giữ nhưng trốn thoát khi tàu vừa cặp bến. Tôi thuyết phục các phụ nữ bị làm nhục ra trước ủy ban điều tra quốc tế đối chứng với lời khai của tôi nhưng chỉ có người vợ của bạn và một người vợ của anh thợ máy đồng ý. Tiếng kêu tuy yếu ớt được ghi nhận. Người vợ của bạn tôi suy sụp, khủng hoảng tinh thần cực độ khi biết đã mang thai. Cô nài nỉ tôi tìm mọi cách giúp phá nếu không sẽ tự vận. Tôi thật sự khổ sở giữa nên hay không nên. Nếu nên thì cũng không biết làm sao. Phương tiện y tế hạn chế, dễ gây hậu quả xấu cho người mẹ. Sau một đêm dài trằn trọc tôi quyết định viết một lá thư kể toàn bộ sự việc diễn tiến trên tàu, nhờ gửi khẩn cho người chồng. Năm tuần lễ sau nhận được hồi âm. Anh cho biết vị luật sư bảo lãnh anh đã tích cực vận động với các dân biểu và nghị sĩ tiểu bang cũng như liên bang lên tiếng với bộ ngoại giao Hoa Kỳ, thỉnh cầu can thiệp trực tiếp trường hợp của vợ anh để xin được đi định cư trong thời gian sớm nhất trước khi tiên liệu xấu xảy ra. Anh tha thiết xin vợ đừng phá thai, sẵn sàng nhận vai trò làm cha. Tôi đã được phái đoàn Canada chấp nhận và thông báo ngày đi định cư nhưng phải xin đình hoãn. Sáu tháng vận động đã có kết quả. Anh bạn tôi đi cùng với nhân viên lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Singapore đến Galang. Qua thủ tục đặc biệt, mang được người vợ đến Mỹ. Đứa bé được sinh ra trên đất Mỹ với khai sinh mang họ của bạn tôi. Trong buổi hội ngộ tiệc thôi nôi, vợ chồng anh bạn và người anh vợ cùng tôi đồng thuận tuyệt đối giữ bí mật mọi chuyện để sự phát triển tâm sinh lý của đứa trẻ không bị ảnh hưởng và sẽ lớn lên như một người Việt Nam trong một gia đình Việt tỵ nạn. Thỉnh thoảng có dịp thăm viếng tôi tưởng như nhìn thấy hạnh phúc thật sự trong gia đình họ. Cậu bé lớn lên trong tình yêu tràn đầy của cha lẫn mẹ. Sinh kế đã làm giảm tần xuất liên lạc giữa chúng tôi một thời gian. Mỗi năm chỉ còn nhớ đến nhau qua những tấm thiệp xuân. Cho đến một lần, thay vì nhận được thiệp thì là một lá thư dài kể lại tai nạn thảm thương cướp mất người vợ. Thường ngày người chồng nhắc nhở vợ dùng thuốc đều đặn vì hậu chấn thương trên biển cả khiến người vợ cần được săn sóc tâm thần và tâm lý trị liệu lâu dài. Lần đó người chồng đi dự hội thảo chuyên môn ở tiểu bang xa nhà. Người vợ đã bỏ thuốc nhiều ngày, giữa đêm mưa gió đi lang thang ngoài bờ sông không tự kiểm soát được, ngã xuống nước trôi mất tích. Vợ chết. Bệnh trầm cảm truyền qua anh. Mặc cảm có tội luôn luôn ám ảnh. Anh dồn hết tình thương cho đứa bé, nay đã trở thành một thiếu niên. Đến lúc đứa con phải xa nhà vì học vấn anh không thể đương đầu với nỗi buồn gặm nhấm, trầm cảm nặng hơn. Nhiều năm nữa trôi qua. Tin buồn khác lại đến. Bạn tôi qua đời sau một thời gian ngắn nhuốm bệnh. Anh biết bệnh mình trầm kha, nhưng buông xuôi không quan tâm chữa trị, có lẽ muốn gặp vợ để giữ trọn lời thề năm xưa. Cha mẹ đều mất. Bác ruột di cư sang Úc theo vợ. Tôi trở thành người thân duy nhất để chàng thanh niên, tức đứa bé ngày xưa, xả tâm tình. Chúng tôi xem nhau như chú cháu. Những lá thư qua lại làm tôi lây những ưu tư của một người trẻ nghĩ về thân phận mình. Trích đoạn những lá thư của cháu (chuyển từ Anh ngữ). …Chú ơi! Từ lúc bắt đầu hiểu biết cháu đã linh cảm có điều gì rất nghịch lý trong gia đình cháu. Hạnh phúc như con bướm lượn lờ trên những bông hoa mời chào, ngập ngừng muốn đậu rồi lại bay đi… …Cha cháu chiều chuộng cháu hơn những đứa trẻ cùng trang lứa. Mẹ cháu hay vuốt tóc, hôn cháu trong không gian tĩnh lặng, nói nhỏ, con của mẹ, mẹ yêu con, lặp đi lặp lại. Nhưng cũng có những đôi lúc cháu bắt gặp cặp mắt thất thần của mẹ nhìn ra cõi xa xăm. Mẹ rất sợ sông, biển. Những kỳ đi nghỉ hè cha luôn luôn tránh vùng biển. Cha săn sóc mẹ từ miếng ăn giấc ngủ. Mẹ biếng ăn, cha bỏ bữa. Mẹ mất ngủ, cha “hầu quạt”. Mẹ buồn, cha làm hề, dí ngón tay lên trán gọi mẹ là cô bé bướng bỉnh, mẹ mỉm cười gọi cha là cậu giáo khó tính, thế là buồn tiêu tan. Cha biết làm cho mẹ vui vẻ hoạt bát qua những viên thuốc mà cha gọi là thuốc tiên, bắt mẹ uống mỗi ngày (sau này cháu mới biết là những thuốc trị tâm thần). Mấy đứa bạn của cháu thắc mắc tại sao cha mẹ cháu đều có nước da sáng, cao lớn, mũi thẳng mà cháu thì sậm da, người tròn thấp, cánh mũi to… …Cháu muốn quên mà không quên được cái hình hài không giống ai của cháu. Có phải cháu là con ngoại hôn của mẹ không chú? Hay cháu là con nuôi? Hay là cháu đến từ một hành tinh khác? … …Chú không hiểu tại sao cháu lại có những suy nghĩ lẩm cẩm như thế. Chuyện giống hay không giống là quyền của…ông trời. Cố học thành tài nối nghiệp cha… …Chú ạ. Cháu báo cho chú tin động…ông trời. Cháu đã xin thử DNA. Ông trời đã sụp đổ trước mắt cháu rồi! Kết quả đúng như cháu hoang mang lo sợ. Cháu không có liên quan phụ hệ với cha cháu!… … Chú hiểu tâm trạng của cháu. Nếu chia sẻ được xin cho chú chia sẻ. Chú nhớ có đọc ở đâu đó: Cha không được định nghĩa như người đã tạo ra đứa trẻ, mà khác hơn thế, là người dang rộng vòng tay và dành thì giờ nuôi nấng đứa trẻ bằng cả tâm trí và tình yêu. Huyết thống không luôn luôn làm nên người cha. Chữ cha phải thoát ra từ tấm lòng. Ai cũng có thể tạo ra một đứa trẻ nhưng cha đúng nghĩa nhất chính là người đã nuôi nấng đứa trẻ. Không liên hệ máu mủ không làm cho người cha kém tình phụ tử. Xác nhận một người cha đích thực, không phải ở DNA, mà ở trong trái tim người ấy… …Cháu cám ơn chú đã mở mắt cho cháu. Nghĩ lại, cháu không còn vướng mắc chuyện…ông trời nữa. Nhưng chú ơi! Giòng máu đang chảy trong người cháu là của ai? Cháu muốn biết và cháu biết chắc chắn chú biết… …Chú không chối cãi là chú và cha mẹ cháu đã giấu diếm nguồn gốc của cháu. Chú không hiểu có nên phá lời thề với cha mẹ cháu không?… Tôi đặt lên bàn cân, một bên là sự đòi hỏi chính đáng của cháu, một bên là lời cam kết với vợ chồng bạn. Cháu đã trưởng thành, có suy nghĩ chín chắn. Sẽ mang tội với cháu nếu vẫn giữ điều bí mật. Vì thế tôi khấn vái vong linh hai người bạn, xin đựợc giải lời thề giúp tôi thanh thản tiết lộ sự thật, từ tình sử thơ mộng của hai người cho đến thảm kịch trong chuyến đi định mệnh. …Cháu xin lỗi đã ngưng liên lạc với chú khá lâu. Cả năm nay cháu đi đi về về giữa Mỹ và Thái Lan. Cháu thuê thám tử tư quyết tìm ra tên hải tặc đã mang tai họa cho gia đình cháu. Bà ngoại cháu trước khi qua đời vẫn tin tưởng cha mẹ cháu sống hạnh phúc và rất hãnh diện về đứa cháu ngoại. Ông ngoại cháu đã chết trong trại tù không lâu sau lần thăm nuôi, chắc không yên tâm nhắm mắt. Ông bà nội từng kỳ vọng ở đứa cháu đích tôn một ngày về vinh quang bái tổ, làm rạng danh dòng họ. Ở bên kia thế giới hai cụ có phẫn nộ vì chi nhánh con cháu chính thống đã thay máu từ đây? Mọi người đều bị lừa dối. Cháu có nhờ cô thông dịch viên, đang theo học khoa ngôn ngữ đại học Chulalongkorn, trợ giúp. Cô này có hoàn cảnh hơi giống cháu. Cha là hải tặc hoàn lương. Mẹ là thuyền nhân suýt bị nạn trên biển như mẹ cháu. Nhờ thám tử và cô bạn, cháu đã tìm thấy và trực diện với người gieo giọt máu oan nghiệt cho mẹ cháu. Bây giờ ông ta đã trở thành một nhà sư, trụ trì ngôi chùa nhỏ trong làng đánh cá. Cháu tham khảo các luật sư của Mỹ và Thái với ý định đưa ông ra toà án để đòi lại công lý cho các nạn nhân, trong đó có mẹ cháu… …Chú ơi giúp cháu. Tiến thối lưỡng nan! Nếu bị kết án, ông sư già có thể phải vào tù, trả giá cho tội lỗi trong quá khứ. Nhưng điều đó có đổi lại bình an cho cháu không? Nên hay không nên tiến hành thủ tục pháp lý? Cháu lâm vào tình trạng y hệt như chú khi xưa (phân vân giữa việc nên hay không nên giúp mẹ cháu phá thai). Chú ơi, có bao giờ chú hối hận vì đã không giúp mẹ trục thai nhi cháu không? Nếu không có cháu trên đời thì sao chú nhỉ? Cha mẹ cháu sẽ sống trong thiên đàng hạnh phúc với những đứa con kết tinh từ tình yêu. Chú có nghĩ rằng cháu đang nuôi đau khổ vì nan giải? Chú ơi, cháu là ai? Việt Nam hay ngoại tộc Việt Nam? Thái Lan ư? Ô nhục! Mỹ ư? Chỉ trên giấy tờ! Những đứa con lai Mỹ dù có bị kỳ thị nhưng vẫn không bị khước từ giòng máu Việt. Còn cháu, cháu có được cái hãnh diện giới thiệu với mọi người “tôi là người Mỹ gốc Việt”? Cháu muốn ra biển hét thi với sóng, gào lên, hỏi ông trời! Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?… …Chú rất thán phục sự quyết tâm và ý chí của cháu. Có lương tâm dẫn dắt, cháu hãy đi theo, làm những gì cháu thấy nên làm. Nếu cháu muốn được tư vấn thì đừng chê quan niệm lỗi thời của chú nhé… …Chứng tích đau thương bi thảm vẫn còn đây. Chứng tích của tội ác man rợ vẫn còn đây. Đó là những hình hài hiện diện trên trái đất không ai mong muốn, những ĐỨA CON LAI… HẢI TẶC. Người ta tìm cách giấu, người ta muốn quên. Nhưng cháu, một trong những đứa con đó, đã dũng cảm nói lên tiếng nói của con người, bình đẳng như mọi người của thế gian này… …Giáo lý Phật Đà dạy ta dùng từ bi và tha thứ để đối phó với nghịch cảnh. Lòng từ bi không chấp nhận hành động sai nhưng có thể tha thứ cho người làm sai. Chính cháu là người đau khổ nhất, không được gì, đúng không? Mong cho ông sư hải tặc rục xương trong tù? Tất cả chỉ làm tinh thần cháu kiệt quệ. Cháu ạ, Kinh Pháp Cú 5 có câu: Hận thù diệt hận thù, Ðời này không có được, Từ bi diệt hận thù Là định luật ngàn thu… …Có phải cháu muốn tìm sự bình an? Nếu cháu chưa sẵn sàng mở lòng bao dung thì cũng đừng để tâm bị xáo trộn. Tâm là cốt lõi của cuộc sống. Với tâm thanh tịnh thì hạnh phúc sẽ tìm đến. Với tâm bất ổn thì đau khổ sẽ bám không rời. Vị sư già cũng đi tìm bình an như cháu. Câu kinh tiếng kệ là những tiếng than khóc của chính mình tạo thành một vòng kín vô hình nhốt ông. Ông ta đang thi hành hình phạt nặng nề nhất của lương tâm. Cứ để ông ta thụ án. Cháu đâu cần phải cố sức bắt tội nguời có tội. Vào tù hay thoát khỏi tù là quyền của…ông trời! …Chú đã giải tỏa đám mây u ám vần vũ trên đầu cháu. Cho cháu thấy ở phía trước một con đường sáng sủa hơn. Hành trang đeo trên vai cũng nhẹ hơn. Cháu hối tiếc những ngày còn cha mẹ, cháu đã không mang đến cho các người tiếng cười hạnh phúc. Không có dịp thầm thì bên tai các người, cha mẹ ơi con yêu cha mẹ… …Cha cháu đã đón nhận cháu như một quà tặng quí giá của tạo hoá. Mẹ cháu cũng mang nặng đẻ đau như các bà mẹ khác. Chú tin rằng ơn này còn nặng hơn ơn nghĩa sinh thành. Phải vinh danh những người cha vĩ đại có trái tim thánh. Phải cúi đầu ngưỡng mộ và cảm thông cho những người mẹ bất hạnh. Người mẹ can đảm, mạnh mẽ đứng dậy sau khi bị vùi dập, cùng với người cha cưu mang, nuôi nấng sinh linh “lạ”, thay giòng máu ô nhiễm trong hài nhi bằng giòng máu vô nhiễm của tâm hồn… …Chú đọc cho cháu thống kê của LHQ, tìm thấy trong thư viện, để cháu có cái nhìn tổng thể. Khoảng 839,000 người Việt Nam đã vượt biển trên những chiếc thuyền mong manh từ 1975 đến 1997. Phỏng chừng 300,000 đến 400,000 người không đến được bến bờ tự do. Chỉ riêng năm 1981 Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ báo cáo: 15,479 thuyền nhân đến Thái Lan đi trên 452 con tàu. Trong đó 349 tàu đã bị hải tặc tấn công, trung bình mỗi tàu 3 lần. 578 phụ nữ bị hãm hiếp. 228 phụ nữ bị bắt cóc. 881 chết hoặc biệt tích… …Con số thai nhi do hải tặc không được báo cáo chính xác vì bản chất phụ nữ Việt hiền lành, chịu đựng. Đa phần do xấu hổ nhục nhã nên không khai báo… …Cháu đoán, những bào thai ấy nếu sống sót bây giờ đã trở thành những thanh niên, trung niên bằng hoặc hơn tuổi cháu. Họ có thể đã lập gia đình và có con cái. Chú ơi, có ai mang cùng tâm trạng như cháu? Hỏi mãi một câu hỏi “Tôi là ai”? …Thảm trạng lịch sử đã sang trang chưa? Có nên hâm lại chuyện cũ không? Chú không biết. Tội ác, theo thời gian, có thể dần dần bị quên lãng nhưng chứng tích tội ác là những đứa con lai…hải tặc hiện hữu khắp nơi. Chú nêu vấn đề với cộng đồng, mong câu hỏi “Tôi là ai?” của cháu sẽ được trả lời. Bằng lòng với số phận? Sống để bụng chết mang theo?… Nghĩ sao? Nguyễn Cát Thịnh 30/4/ 2018
|
|
|
Post by 2T on Aug 10, 2018 11:12:16 GMT -6
Vietnamese Heritage Flag and the National Anthem of South Vietnam
This is a resource created to help individuals understand why the Vietnamese Community in North America recognizes the Heritage Flag (yellow background, and three horizontal red bands in the middle) and the National Anthem of South Vietnam .
The meaning of the Vietnamese Heritage Flag’s Colors
The yellow background represents the ancestral land and the color of the Vietnamese race. The yellow color also represents earth symbolizing the territory and the national sovereignty.
The red color represents fire. The red color is also the color of the South and symbolizes a brave, un-submissive, heroic, and independent race in the south region, Vietnam, which is separated from the north region, China.
The three red bands represent the three regions of Vietnam: North, Central, and South. But, these three regions unite in the national home, the home of the Vietnamese people, who always love and protect one another.
Why do we (the Vietnamese Community in North America) recognize the heritage flag instead of the National flag of the Democratic Republic of Vietnam (Red flag with Yellow star)?
The Vietnamese Heritage Flag represents a home our parents were forced to leave behind in pursuit of a better life. We, as beneficiaries of this sacrifice, continue to recognize the flag.
The Vietnamese Heritage Flag continues to be the official emblem of Free Vietnam for the freedom-loving Vietnamese people in Vietnam and abroad. It represents the peaceful opportunity, the everlasting success, and the imposing victory of Vietnamese people.
The Vietnamese Heritage Flag has been through ups and downs with the Vietnamese people’s imposing history. It represents democracy, freedom, human rights, brave will, peace and prosperity, and unity during the course of building and protecting the country of Vietnamese’s ancestors.
The Vietnamese Heritage Flag is not solely the property of any regime or any government. It is the state property of free Vietnamese people. Where there is a Vietnamese Heritage Flag, there are love, democracy, freedom, and human rights.
Này Công Dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên, Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền. Dù cho thây phơi trên gươm giáo, Thù nước, lấy máu đào đem báo. Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy, Người Công Dân luôn vững bền tâm trí. Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời! Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ! Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!
English translation.
Oh citizens! And at our Country’s call Of one heart we go forth, sacrificing ourselves with no regrets For the future of the people, advance into battle Let us make this land eternally strong Should our bodies be left on the battlefields The nation will be avenged with our crimson blood The Race in times of crisis will be rescued We the People remain resolute in our hearts and minds Courageously we will fight such that everywhere The Glory of the Vietnamese resounds for eternity Oh citizens! Hasten to offer yourselves under the flag! Oh citizens! Hasten to defend this land Escape from destruction, and bask our Race in glory Be forever worthy of the Lạc Hồng descendants!
Jackie Dang Howe I love this flag. It is the flag of VNCH, the flag of my grandparents and parents. It was the flag that so many heroes died for. It will always be the only flag I recognized for V'mese people. It will be the flag my children will bear on in their hearts.
|
|
|
Post by Facebook Truc Tran on Aug 17, 2018 11:58:06 GMT -6
Sức mạnh của Hoa Kỳ là ở đâu?
Sức mạnh của Mỹ không phải chỉ nằm ở mấy chiếc hàng không mẫu hạm hay phi đạn Tomahawk mà:
– Nó còn nằm ở chỗ dù mồm bạn đang chửi Mỹ xoen xoét nhưng tay bạn vẫn thích bấm cái phone do Mỹ làm ra, mắt vẫn thích lướt Fb do người Mỹ viết mà thành, đít vẫn thích ngồi xe hơi do Mỹ chế, hay bay trên máy bay là thứ cũng do người Mỹ phát minh để chu du khắp bốn phương trời.
– Nó nằm ở chỗ, dù bạn có lôi tổng thống Mỹ ra mà chửi cha mắng mẹ cũng chẳng người Mỹ nào quan tâm, chẳng ai thèm đến nhà kiếm bạn để hăm he trả thù, và con cái của bạn vẫn cứ đường hoàng đến Mỹ ăn học mà chẳng có ai làm khó dễ chúng điều gì.
– Nó nằm ở chỗ, khi các nước bị Mỹ đến Xâm Lược như Tây Âu, Nhật Bản hay Hàn Quốc thì đều trở nên phồn thịnh và văn minh, còn các nước được Liên Xô hay Trung Quốc đến giải phóng như Đông Âu hay Tây Tạng thì hổng đổ máu cũng bầm mình.
– Nó nằm ở chỗ, chính kẻ thù của Mỹ cũng cảm thấy chỉ có Mỹ là nơi an toàn để nương thân mỗi khi bị đồng chí của mình hãm hại. Ngay cả cố tổng bí thư Liên Xô một thời lừng lẫy Khruschchev mà rồi con trai ông ấy cũng có được yên thân ở Liên Xô đâu, cũng phải chạy sang Mỹ mà áp tay lên ngực để chào lá cờ hoa một thời cha ông mình chửi rủa.
- Nó nằm ở chỗ, nếu như hôm trước bạn còn xuống đường hò hét chửi Mỹ như thể bạn thù nước Mỹ không đội trời chung thì hôm sau bạn vẫn sẽ vứt hết tất cả để đi Mỹ nếu như bạn được cấp một chiếc thẻ xanh.
– Tôi đã thấy rồi, tôi đã thấy có người chửi Mỹ xoen xoét khi còn ở Việt Nam nhưng rồi cũng rất hồ hởi khi được có mặt ở cái xứ tư bản giãy chết này dù nói chuyện vẫn còn cố vớt vát “đi là vì tương lai của các con thôi”.
– Tôi đã thấy rồi, tôi đã thấy có người chửi Mỹ xoen xoét khi đã sang đây rằng “ở Mỹ cực như chó” nhưng lại cứ ráng ở lại chịu cực mà chẳng thấy quay về.
– Sức mạnh của Mỹ nó nằm ở chỗ, nó là cái nơi thu hút con người ở khắp mọi miền trên thế giới đổ về, chứ không phải là cái nơi mà ai cũng muốn bằng mọi giá phải dứt áo từ bỏ. Nó không ràng buộc ai phải ở lại nhưng chẳng ai tự nguyện ra đi.
– Sức mạnh của Mỹ nó nằm ở chỗ, 4 người đàn ông lực lưỡng chung tay khiêng cái nón nhẹ hều một cách trang nghiêm để tôn trọng người quá cố, dù rằng người quá cố đó từng là một đối thủ. Chứ không phải đưa hài cốt của đồng đội mình về trong một cái túi xách đàn bà.
Các nhà bồi bút ở Việt Nam hãy thôi chỉ nhìn vào mấy trái tên lửa rồi cố hạ thấp sức mạnh của Mỹ và nâng bi sức mạnh của Nga hay Tàu làm gì. Bởi Mỹ có những điều mà hai xứ này cả trăm năm nữa cũng chưa chắc có, đó là Mỹ đã có một nền dân chủ 242 năm. Còn Nga và Tàu? Ngoài độc tài và súng đạn thì họ còn gì?
Facebook Truc Tran
|
|